Đường Xylitol cho con - gọi 0904189797

THỰC HIỆN MỘT CÁCH ĐỘC LẬP NHỮNG LỆNH VIẾT

Xã hội hóa, độc lập, 5 - 6 tuổi
KỸ NĂNG NHẬN THỨC, ĐỌC, 6 - 7 TUỔI
Mục đích: Cải thiện khả năng đọc và làm việc một cách độc lập.
Mục tiêu: Đọc và thực hiện lệnh viết đơn giản cho công việc và làm công việc đó một cách bình tĩnh và độc lập.
Dụng cụ: Hộp giày, giấy, bút chì.
Tiến trình:
- Bạn chuẩn bị cho trẻ một loạt chương trình bài tập bằng cách tập họp những công cụ mà trẻ làm và để chúng vào hộp giày, mỗi hộp một bài tập. Mỗi bài tập, bạn viết những lệnh ngắn và rất đơn giản và để chúng vào trong những hộp, phía trên công cụ.
- Bạn để tất cả những hộp giày vào một nơi quen thuộc, như trên một kệ mà trẻ có thể tự lấy dễ dàng.
- Bạn chỉ cho trẻ nơi để các hộp và nói với trẻ “lấy một hộp làm việc”. Những lần đầu bạn giúp trẻ trong các bài tập bằng cách chọn một hộp, mang nó đến bàn làm việc, đọc những lệnh và thi hành lệnh. Sau đó bạn bỏ công cụ vào hộp và đem hộp để trên kệ. Bạn thưởng trẻ khi trẻ làm xong.
- Bạn bảo đảm rằng những bài tập này là những bài trẻ có khả năng làm không trợ giúp. Điều quan trọng là những lệnh phải rõ và trẻ hiểu từng chữ. Ví dụ:
1) Không nói.
2) Chồng 4 khối.
3) Để lại những khối trong hộp.
4) Mang hộp.
5) Đến với mẹ để được bánh bít-quy.

TRẢ LỜI ĐIỆN THOẠI

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 5 - 6 tuổi
KỸ NĂNG BẰNG LỜI, ĐỐI THOẠI, 5 - 6 TUỔI
Mục đích: Cải thiện khả năng tương tác xã hội.
Mục tiêu: Trả lời điện thoại một cách độc lập và phù hợp.
Dụng cụ: Điện thoại đồ chơi, nếu có thể được.
Tiến trình:
- Bạn làm bài tập này với trẻ trước khi cho phép trẻ nói chuyện điện thoại thật. Điện thoại đồ chơi thích hợp nhất, nếu có.
- Trước tiên bạn dạy trẻ cách nhắc điện thoại và nói “alô”. Có thể bạn dán hình một cái miệng và một lỗ tai ở hai đầu thích hợp của điện thoại để cho trẻ dễ dàng sử dụng điện thoại.
- Khi trẻ có khả năng nhắc điện thoại và nói “alô”, bạn dạy trẻ nói “Vui lòng chờ một chút” và gọi thành viên trong gia đình có điện thoại.
- Bạn làm bài tập bằng cách giả vờ gọi điện thoại cho mỗi thành viên trong gia đình.
- Khi trẻ đã quen cách này, bạn bắt đầu làm việc trên điện thoại thật. Bạn sắp xếp với người họ hàng hoặc với người bạn để người đó gọi vào giờ thích hợp sao cho trẻ có thể trả lời.
- Bạn sắp xếp trước với người đó những gì người đó phải nói để trẻ không cảm thấy quá lúng túng.
- Lặp lại bài tập này nhiều lần và khi trẻ đạt được nhiều sự an toàn, bạn làm đa dạng những yêu cầu của người gọi sao cho trẻ biết phản ứng vào một số tình huống khác nhau.
- Khi trẻ cảm thấy thoải mái trả lời điện thoại, bạn để trẻ trả lời điện thoại mỗi lần trẻ muốn, nhưng bạn đứng cạnh trẻ trong trường hợp trẻ cảm thấy lúng túng.

“TÔI CHƠI VỚI ĐỒ CHƠI CỦA TÔI”

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 5 - 6 tuổi
KỸ NĂNG NHẬN THỨC, NGÔN NGỮ THỤ CẢM, 2 - 3 TUỔI
KỸ NĂNG BẰNG LỜI, BIỂU CẢM, 3 - 4 TUỔI
Mục đích: Phân biệt đồ dùng cá nhân và đồ dùng người khác.
Mục tiêu: Biết cái gì thuộc về mỗi thành viên trong gia đình và cấm sử dụng đồ dùng người khác khi không được phép.
Dụng cụ: Đồ dùng của mỗi thành viên trong gia đình dễ phân biệt và thuộc về người đó, hộp giày, hình của thành viên trong gia đình.
Tiến trình:
- Bạn dán hình mỗi thành viên trong gia đình trên nắp hộp giày. Bạn chỉ mỗi hộp giày cho trẻ và nói: “Hộp này là đồ của mẹ… Hộp này là đồ của con…. Hộp này là đồ của anh con”, v.v… Cùng lúc bạn đưa cho trẻ một đồ vật và nói với trẻ đồ vật thuộc về ai. Bạn nói: “Đồ này là của mẹ”. Bạn giúp trẻ để đồ vật vào hộp đúng bằng cách lặp lại tên và chỉ vào hình trên hộp. Không để trẻ chơi đồ đó trừ khi vật đó là của trẻ. Nếu trẻ muốn chơi với đồ của ai khác, bạn ngăn trẻ lại nà nói: “Đồ này là của mẹ” và hướng dẫn trẻ để đồ đó vào hộp. Nếu trẻ chơi đồ của trẻ, bạn nói “Đúng rồi, đồ này là của con” và bạn để trẻ chơi với đồ đó trong vài phút.
- Khi trẻ quen với bài tập, bạn bắt đầu dạy trẻ xin phép chơi với đồ vật của người khác. Trong khung của bài tập này, bạn cho trẻ một đồ vật của thành viên khác trong gia đình.
- Bạn cho trẻ một đồ vật của anh trẻ và nói “Cái này là của anh con”. Bạn cầm tay trẻ và hướng dẫn trẻ đến người anh. Bạn giúp trẻ chỉ đồ vật cho anh trẻ và xin phép “Em muốn chơi”. Nếu anh trẻ nói “Được”, trẻ có thể chơi với đồ vật. Nếu anh trẻ nói “Không”, bạn hướng dẫn trẻ mang đồ vật về hộp và bỏ đồ vật vào hộp không chơi với nó.
- Khi trẻ biết chương trình của bài tập, bạn khái quát hóa kỹ năng này vào thời điểm khác.
- Khi trẻ bắt đầu lấy đồ gì không phải của trẻ, bạn ngưng trẻ lại, bảo trẻ mang đồ vật đó tới chủ của nó và xin phép. Bạn thưởng trẻ ngay khi trẻ biết xin phép.

VẼ MỘT CÁCH ĐỘC LẬP SAU NHỮNG LỆNH ĐƯỢC VIẾT

Xã hội hóa, độc lập, 5 - 6 tuổi
PHỐI HỢP MẮT-BÀN TAY, HÌNH VẼ, 5 - 6 TUỔI
KỸ NĂNG NHẬN THỨC, ĐỌC, 6 - 7 TUỔI
Mục đích: Cải thiện năng lực làm việc một cách độc lập và phát triển khả năng theo dõi lệnh viết đơn giản.
Mục tiêu: Đọc những lệnh viết đơn giản và vẽ một cách độc lập những gì lệnh đó yêu cầu.
Dụng cụ: Giấy, bút chì bột màu.
Tiến trình:
- Viết những lệnh đơn giản trên một hình mà bạn muốn trẻ vẽ (bạn đảm bảo là lệnh đó không vượt quá khả năng đọc hiểu của trẻ. Trẻ phải biết mỗi từ trong lệnh và có khả năng vẽ những gì được yêu cầu)
- Một lệnh tốt có thể là: “Con vẽ ba” hoặc “Con vẽ nhà” (Bạn đừng quên là mỗi từ trong lệnh nếu trẻ không hiểu sẽ làm trẻ nản lòng và làm cho bài tập trở nên vô ích).
- Sau khi viết lệnh, bạn đưa cho trẻ một miếng giấy, một bút chì bột màu và các lệnh. Bạn giúp trẻ đọc lệnh thứ nhất và bảo trẻ bắt đầu vẽ.
- Khi trẻ bắt đầu vẽ và bạn xa dần trẻ (bạn để mắt theo dõi trẻ để đảm bảo là trẻ chú ý).

- Khi bạn thấy trẻ vẽ gần xong, bạn trở lại gần trẻ và khen trẻ đã vẽ và đã làm theo lệnh.
- Khi trẻ quen vẽ theo lệnh, bạn đặt trên bàn, trước mặt trẻ 3 tờ giấy, 3 bút chì bột màu và 3 lệnh trò chơi khác nhau. Bạn nói với trẻ là khi trẻ làm xong 3 lệnh đó, trẻ sẽ nhận một phần thưởng đặc biệt.
- Lặp lại bài tập này cho tới khi trẻ có thể theo lệnh và vẽ một cách độc lập trong vòng 20 đến 30 phút.

VẼ MỘT CÁCH ĐỘC LẬP

Xã hội hóa, độc lập, 5 - 6 tuổi
PHỐI HỢP MẮT-BÀN TAY, HÌNH VẼ, 5 - 6 TUỔI
KỸ NĂNG NHẬN THỨC, NGÔN NGỮ THỤ CẢM, 2 - 3 TUỔI
Mục đích: Phát triển khả năng làm việc độc lập và cải thiện năng lực vẽ.
Mục tiêu: Sao chép một cách độc lập một hình vẽ đơn giản.
Dụng cụ: Giấy, bút chì bột màu.
Tiến trình:
- Trước khi bắt đầu buổi dạy, bạn vẽ những hình ảnh đơn giản – mỗi hình trên một tờ giấy – những đồ mà bạn biết là trẻ đã vẽ. Ví dụ bạn có thể cho trẻ vẽ nhà đơn giản, cây hay là bóng của một người.
- Đưa cho trẻ một miếng giấy, một bút chì bột màu và một hình của bạn như hình nhà. Bạn chỉ hình của bạn và nói “nhà” sau đó chỉ cho trẻ tờ giấy của trẻ và nói “Con vẽ nhà”. Bạn nói với trẻ là khi trẻ vẽ xong, trẻ sẽ nhận được một phần thưởng tốt.
- Bảo trẻ bắt đầu vẽ và bạn xa dần trẻ để làm việc khác trong phòng (bạn để mắt theo dõi trẻ để đảm bảo là trẻ chú ý).
- Nếu trẻ bắt đầu vẽ nguyệch ngoạc hoặc ngưng vẽ khi bạn đi khỏi, bạn lại hướng trẻ chú ý đến hình và nói: “Con vẽ nhà” và nhắc trẻ phần thưởng. Chỉ cho trẻ phần thưởng khi trẻ thử sao chép hình một cách độc lập. Lúc đầu bạn bằng lòng với tất cả khuynh hướng sao chép hình mẫu, nhưng khi trẻ vẽ khá hơn, bạn hướng sự chú ý của trẻ về những phần hình trẻ vẽ còn thiếu và bảo trẻ bổ sung hình vẽ trước khi nhận phần thưởng.

TRÒ CHƠI “TÔI CẦN GÌ ?”

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 4 - 5 tuổi
Mục đích: Cải thiện mối tương tác và sự hiểu biết chức năng các đồ vật.
Mục tiêu: Tự nhận thấy những nhu cầu của người khác và phản ứng bằng đồ vật thích hợp.
Dụng cụ: Khăn giấy, áo len dài tay có cổ, lược.
Tiến trình:
- Đặt 3 đồ vật trên bàn trước trẻ, bạn làm điệu bộ biểu lộ bạn cần một trong 3 đồ vật đó. Ví dụ bạn làm ra vẻ run cầm cập để biểu lộ bạn lạnh và cần áo len. Bạn nói: “Con nhìn nầy” bạn làm điệu bộ và nói: “Cô cần gì?”.
- Lặp lại hành động này và chỉ 3 đồ vật. Nếu trẻ không phản ứng, bạn lặp lại hành động, chỉ vào áo len và nói “Con đưa cho cô áo len”.
- Nếu trẻ đưa cho bạn đúng đồ vật, bạn sử dụng đồ vật đó một cách thích hợp và nói “cám ơn”. Ví dụ bạn run cầm cập, trẻ đưa cho bạn áo len và bạn mặc áo len. Nếu bạn hắt xì, trẻ đưa cho bạn khăn giấy và bạn hỷ mũi. Hoặc là bạn làm rối bù tóc, trẻ phải đưa cho bạn cái lược và bạn chải tóc.
- Lặp lại tiến trình này cho tới khi trẻ hiểu điều bạn cần khi bạn làm điệu bộ và trẻ đưa đúng đồ vật.

TRÒ CHƠI GIẢ VỜ, MỨC ĐỘ TRUNG BÌNH

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 4 - 5 tuổi
KỸ NĂNG NHẬN THỨC, NGÔN NGỮ THỤ CẢM, 3 - 4 TUỔI
Mục đích: Phát triển khả năng tưởng tượng trò chơi và cải thiện tương tác xã hội.
Mục tiêu: Tích cực tham gia giai đoạn giả vờ khoảng 5 phút.
Dụng cụ: Thú nhồi bông.
Tiến trình:
- Khi trẻ đã bắt đầu tham gia vào những trò chơi giả vờ nhỏ (xem bài tập trước), bạn nhớ lại những gì bạn biết về sự vui thích của trẻ, bạn tưởng tượng ra và sọan thảo những đọan giả vờ trong 5 phút phức tạp hơn mà bạn sẽ chơi chung. Ví dụ bạn có thể giả vờ đi “săn gấu”. Bạn giấu thú nhồi bông vào một nơi nào trong nhà rồi bạn đi tìm con gấu đó. Bạn đi nhè nhẹ, nhón gót khắp nhà như thể bạn muốn bất thình lình tóm được con gấu. Bảo trẻ sục sạo những đồ vật xem có con gấu ở đó.
- Khi bạn tìm ra con gấu, bạn chạy trốn như thể là con gấu rượt đuổi bạn. Dựa vào trí tưởng tượng của bạn để bạn sọan thảo những câu chuyện khác để chơi (bạn đảm bảo là trẻ tham gia một cách tích cực).

CÔNG VIỆC NHÀ

Xã hội hóa, độc lập, 4 - 5 tuổi
KỸ NĂNG NHẬN THỨC, KẾT HỢP, 1 - 2 TUỔI
Mục đích: Cải thiện khả năng làm việc một cách độc lập
Mục tiêu: Hoàn tất công việc nhà hữu ích không trợ giúp hoặc không bị theo dõi.
Dụng cụ: Khăn lau tay, chén, bát, thìa, nĩa, mâm đựng chén bát thìa nĩa.
Tiến trình:
- Bạn sắp xếp một vài công việc nhà đơn giản cho trẻ làm, để trẻ phát triển khả năng làm việc một cách độc lập và cho trẻ thấy trẻ hữu ích cho gia đình. Nếu cần, bạn tạo ra công việc như giũ khăn, hoặc xáo trộn bộ đồ ăn nhưng bạn làm điều này sao cho trẻ có cảm giác trẻ giúp bạn thực sự. Những công việc có thể là xếp khăn lau tay, phân lọai bộ đồ ăn vừa được rửa xong hoặc lau bụi một đồ đạc. (Bạn tưởng tượng ra những công việc nhưng chú ý là những công việc này phải đơn giản và thoải mái).
- Lúc đầu bạn ở cạnh trẻ và luôn có mặt khi trẻ cần giúp đỡ. Bạn xa dần nơi làm việc của trẻ khi trẻ quen làm việc một mình.
- Bạn thiết lập mỗi ngày một bảng để chỉ cho trẻ chính xác những gì trẻ phải làm và phần thưởng nào trẻ sẽ nhận khi trẻ hòan thành công việc.
- Khi “giai đọan làm việc” bắt đầu, bạn dẫn trẻ đến trước bảng, chỉ cho trẻ họat động trẻ phải làm. Tới một lúc nào đó, bạn thêm một công việc thứ hai lên bảng và xem trẻ có biết qua họat động thứ hai sau khi xong công việc đầu.
- Bạn khen trẻ khi trẻ hòan tất một công việc và cho trẻ phần thưởng ghi trên bảng. (Chú ý tiên liệu những họat động trẻ đã làm rồi và những họat động trẻ có thể làm không trợ giúp).

DỌN BÀN: CHÉN, BÁT, MUỖNG, NĨA

Xã hội hóa, độc lập, 3 - 4 tuổi
Mục đích: Cải thiện sự hiểu biết những thói quen hằng ngày và phát triển khả năng giúp đỡ gia đình một cách hữu ích.
Mục tiêu: Đặt chén, bát, thìa, nĩa trên bàn đúng chỗ.
Dụng cụ: Chén, bát, thìa, nĩa, dĩa.
Tiến trình:
- Bạn bắt đầu chỉ cho trẻ đặt một lọai bộ đồ ăn. Bạn đưa một cái thìa và nói “Con nhìn, thìa” rồi đưa cho trẻ số thìa đúng để đặt lên bàn. Bạn cùng làm một vòng với trẻ dến tất cả vị trí. Bạn chỉ nơi phù hợp với thìa và nói “Con đặt thìa”.
- Nếu trẻ lúng túng bạn giúp trẻ đặt thìa vào vị trí đúng.
- Bạn lặp lại tiến trình này cho đến khi trẻ đặt được thìa ở mỗi vị trí.
- Bạn khen trẻ sau mỗi lần trẻ đặt được thìa.
- Sau khi bạn chỉ vị trí và ra lệnh miệng và trẻ đặt được thìa thường xuyên đúng, bạn dẫn trẻ đến một vị trí và ra lệnh miệng “Con đặt thìa”. Bạn xem trẻ có tìm được đúng vị trí đặt thìa mà không cần sự trợ giúp (bạn đảm bảo là tất cả phần còn lại phải được đặt đúng).
- Khi chỉ với lệnh bằng lời của bạn, trẻ đặt được thìa, bạn lặp lại tiến trình này với dao, nĩa.
- Khi trẻ có thể đặt được một lọai bộ đồ ăn và những lọai khác đang thực hành, bạn lặp lại tiến trình này bằng cách bảo trẻ đặt hai loại ở mỗi chỗ

TRÒ CHƠI CHO VÀ NHẬN

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 3 - 4 tuổi
KỸ NĂNG BẰNG LỜI, BIỂU CẢM, 2 - 3 TUỔI
Mục đích: Tăng sự ý thức và sự thích thú cho và nhận của người khác.
Mục tiêu: Cho người một đồ vật, ngược lại nhận một đồ vật và nói “cám ơn”.
Dụng cụ: Hộp lớn, đồ chơi nhỏ, bánh kẹo.
Tiến trình:
- Đối với bài tập này bạn cần nhờ một người khác, có thể là chị, cha của trẻ hoặc là bạn học.
- Bạn đặt hộp có chứa dụng cụ dưới đất, ngồi gần hộp với trẻ và chị của trẻ.
- Bạn nói với chị trẻ lấy một đồ vật trong hộp và đưa đồ vật đó cho bạn. Bạn nói “Cám ơn”. Rồi bạn bảo chị lấy một đồ vật khác trong hộp như xe ô tô mà trẻ thích và bảo chị đưa đồ vật đó cho trẻ. Bạn động viên trẻ lấy xe ô tô và nói “cám ơn”.
- Khi trẻ nói “cám ơn” hoặc điều gì gần giống, bạn bảo chị mỉm cười và nói với trẻ “không có chi” và ôm trẻ. Rồi bạn hướng dẫn trẻ lấy một đồ vật trong hộp và đưa đồ vật đó cho chị. Bảo trẻ phản ứng lại một cách phù hợp.
- Bạn tiếp tục làm bài tập này bằng cách cho và nhận giữa 3 người chơi cho đến khi tất cả các đồ vật được lấy ra khỏi hộp.
- Khi trò chơi này kết thúc, bạn cho phép trẻ chơi với đồ chơi mà trẻ đã nhận hoặc ăn bánh kẹo.
- Lúc đầu trẻ cần nhiều sự trợ giúp cho bài tập này và có thể có nhiều khó khăn để nói “cám ơn”.
- Lúc đầu bạn chấp nhận tất cả các câu trả lời nhưng dần dần bạn yêu cầu dùng từ chính xác hơn.

LAU BÀN

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 3 - 4 tuổi
Mục đích: Dạy cách sắp xếp tổ chức, sự chú ý và sự gắn bó với thói quen hằng ngày.
Mục tiêu: Lau bàn sau mỗi buổi dạy.
Dụng cụ: Mâm, miếng xốp, khăn giấy.
Tiến trình:
- Bạn giữ những dụng cụ của bài tập này luôn luôn ở một vị trí. Trước mỗi buổi tập, bạn kiểm tra tất cả dụng cụ có ở đúng chỗ và sẵn sàng để được sử dụng.
- Sau mỗi buổi tập tại bàn, bạn phải đi tìm mâm với trẻ để bảo trẻ đem tới bàn và đặt trên ghế.
- Lúc đầu bạn có thể giúp trẻ bưng mâm. Nếu trẻ có thể phối hợp bưng mâm có chén nước mà không làm đổ nhiều, bạn đổ một phần nước vào chén.
- Nếu trẻ không khả năng bưng chén nước thì bạn cho trẻ bưng mâm có chén không trong khi đó bạn bưng hủ nước nhỏ để rót đầy chén nước cho trẻ tại bàn.
- Bạn cầm bàn tay trẻ và chỉ cho trẻ cách lau bàn bằng miếng xốp ẩm ướt.
- Bạn đi qua mỗi giai đọan từ từ để trẻ không cảm thấy lúng túng.
- Cùng cách đó, mỗi lần, bạn dạy trẻ cách lau bàn, đi từ bìa ngoài và tiến về phía trong. Rồi bạn bảo trẻ để miếng xốp trên mâm và lặp lại tiến trình với khăn giấy để lau khô bàn. Sau cùng bảo trẻ mang mâm về chỗ cũ.
- Khi mâm được đặt lại chỗ cũ, buổi học kết thúc và trẻ có thời gian trống để làm những gì trẻ thích.

TRÒ CHƠI GIẢ VỜ ĐẦU TIÊN

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 3 - 4 tuổi
BẮT CHƯỚC, VẬN ĐỘNG, 2 - 3 TUỔI
Mục đích: Phát triển khả năng tưởng tượng để chơi.
Mục tiêu: Thực hiện một giai đoạn giả vờ đơn giản khoảng 2 phút.
Dụng cụ: Không có.
Tiến trình:
- Cố gắng cho trẻ bận tâm vào một họat động giả vờ ngắn. Lúc đầu những cảnh phải ngắn và đơn giản, có thể không quá một hoặc 2 câu ngắn kèm theo hành động dễ hiểu. Lúc đầu phải làm điều cơ bản giả vờ nhưng cố gắng kéo trẻ quan tâm đến những gì bạn làm. Trẻ cần nhiều trợ giúp để hiểu những gì bạn mong đợi nơi trẻ và bạn cũng phải nhẫn nại. Bạn cho trẻ tham gia vào bài tập bằng mọi cách có thể. Lúc đầu trẻ chỉ có thể bắt chước hành động của bạn mà không hiểu khái niệm trò chơi giả vờ.
- Lặp lại bài tập nhiều lần cho tới khi trẻ bắt đầu tham gia một cách tích cực.
- Những giai đọan giả vờ cơ bản có thể được hình thành như sau:
a) Gỉa sử cả hai chúng ta đều là cây. Bạn nói: “Chúng ta làm cây”. Bạn dang tay ra như nhánh cây và bảo trẻ bắt chước. Sau đó bạn nói: “kia là gió” và bạn vừa dùng miệng thổi, vừa vẫy cánh tay như là những nhánh cây lung lay trước gió. Cuối giai đọan.
b) Gỉa sử chúng ta đi du ngọan bằng ô tô. Bạn ngồi trên trường kỷ cạnh trẻ và bạn giả vờ lái ô tô. Bạn nói “Vrum-vrum” và bảo trẻ bắt chước cử chỉ của bạn. Bạn rời trường kỷ và giả bộ đóng cửa. Cuối giai đọan.
- Chú ý ngôn ngữ phải đơn giản nhưng luôn chỉ cho trẻ một cách rõ ràng có thể được những gì bạn giả vờ.

TƯƠNG TÁC VỐI CON RỐI

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 3 - 4 tuổi
KỸ NĂNG BẰNG LỜI, ĐỐI THOẠI, 2 - 3 TUỔI (KHÔNG BẮT BUỘC)
Mục đích: Cải thiện tương tác xã hội, khả năng tưởng tượng chơi, và không bắt buộc, tài đối thoại.
Mục tiêu: Sử dụng con rối cách thích hợp để tương tác cởi mở với con rối của người khác.
Dụng cụ: 2 con rối cầm tay.
Tiến trình:
- Bạn xỏ bàn tay của bạn vào con rối và sử dụng bàn tay đó để chơi với trẻ. Bạn dùng con rối để cù lét và tạo một cuộc đối thoại đơn giản bằng cách dùng giọng óc cho con rối.
- Động viên trẻ trả lời con rối một cách phù hợp. Cố gắng cho trẻ quan sát con rối thay vì quan sát mặt của bạn.
- Khi trẻ bắt đầu nắm khái niệm trò chơi con rối, bạn đưa cho trẻ chính con rối của trẻ và chỉ cho trẻ cách sử dụng. Cố gắng hướng dẫn trẻ sử dụng con rối của trẻ để tác động qua lại với con rối của bạn.
- Thử cù lét con rối của trẻ bằng con rối của bạn để trẻ phản ứng lại với con rối hơn là với bạn.
- Đầu buổi khám, trong thời gian ngắn, bạn thử kéo dài tương tác khi trẻ cảm thấy thoải mái hơn trong trò chơi con rối.

CHƠI HÌNH KHỐI BẰNG SỰ HỢP TÁC

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 2 - 3 tuổi
PHỐI HỢP MẮT-BÀN TAY, KIỂM SOÁT, 1 - 2 TUỔI
KỸ NĂNG NHẬN THỨC, SẮP XẾP CÙNG LOẠI, 1 -2 TUỔI
Mục đích: Tăng khả năng tương tác và phát triển khái niệm đợi đến phiên trẻ.
Mục tiêu: Xây dựng tháp bằng hình khối xen kẻ với người dạy.
Dụng cụ: Hình khối.
Tiến trình:
- Bạn ngồi vào bàn hoặc dưới đất cạnh trẻ, đặt 3 hình khối trước trẻ và giữ cho bạn 3 hình. Bạn đặt một hình khối giữa bạn và trẻ vào một vị trí mà cả hai đều có thể lấy dễ dàng.
- Bạn chỉ vào một hình khối của trẻ và nói: “Con đặt một hình khối lên trên” và chỉ vào phía trên mặt khối mà bạn đặt lên bàn. Bạn hướng dẫn bàn tay trẻ để chồng khối thứ hai nếu cần.
- Khi trẻ đã đặt hình khối của trẻ, bạn đặt hình khối khác của bạn lên trên hình khối trẻ vừa chồng và chỉ hình khối khác của trẻ và nói: “Con đặt một hình khối lên trên”.
- Lặp lại tiến trình này cho tới khi tất cả các khối được chồng lên theo đúng thứ tự.
- Nếu trẻ muốn đặt một hình khối lên trong khi đến phiên bạn, bạn giữ bàn tay trẻ lại một giây, bạn đặt hình khối của bạn và tiếp tục trình tư.
- Khi trẻ bắt đầu nắm vững phương pháp, bạn giảm dần lệnh bằng lời và điệu bộ để xem trẻ có biết trước khi nào đến phiên trẻ không.

CHƠI BÚP BÊ

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 2 - 3 tuổi
BẮT CHƯỚC, VẬN ĐỘNG, 1 - 2 TUỔI
Mục đích: Cải thiện tương tác xã hội và phát triển khả năng chơi.
Mục tiêu: Hoàn thành một thói quen với búp bê qua 3 hoặc 4 giai đoạn.
Dụng cụ: Búp bê, bàn chải tóc, găng tay, lược.
Tiến trình:
- Cố gắng cho trẻ chăm sóc búp bê như bạn chăm sóc trẻ. Thiết lập cho trẻ những thói quen. Ví dụ, khi bạn chuẩn bị cho trẻ ngủ, bạn cũng bảo trẻ chuẩn bị cho búp bê ngủ. Khi bạn lau mặt cho trẻ, bạn giúp trẻ sử dụng găng tắm để lau mặt búp bê. Rồi bạn chải tóc cho trẻ, bạn đưa cho trẻ cái lược để trẻ cũng chải tóc cho búp bê. Sau cùng bạn có thể bảo trẻ cho búp bê vào giường, trong một cái hộp và đắp búp bê bằng một khăn lau tay như là cái mền trước khi bạn cho trẻ ngủ.
- Bạn gợi sự tưởng tượng của bạn để phát triển những thói quen khác, để giúp trẻ chăm sóc búp bê như bạn chăm sóc trẻ.
- Cố gắng giúp trẻ cảm nhận trách nhiệm chăm sóc búp bê như bạn cảm thấy trách nhiệm về sự chăm sóc của trẻ.

CHƠI TRỐN TÌM

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 2 - 3 tuổi
XÃ HỘI HÓA, ĐỘC LẬP, 2 - 3 TUỔI
VẬN ĐỘNG TỔNG QUÁT, THÂN THỂ, 2 - 3 TUỔI
KỸ NĂNG NHẬN THỨC, NGÔN NGỮ THỤ CẢM, 1 -2 TUỔI
Mục đích: Ý thức được trốn, tăng ước muốn tìm thấy và phản ứng qua lại với người khác.
Mục tiêu: Tự trốn đối với người khác và sau đó tìm lại người đó khi họ trốn.
Dụng cụ: Không có.
Tiến trình:
- Bạn bắt đầu bài tập này bằng cách dạy cho trẻ “trốn”.
- Cho ba của trẻ hoặc bạn học ngồi trong phòng. Bạn cầm tay trẻ và nói “Con trốn ba đi”. Bạn dẫn trẻ đến phía sau cửa, sau ghế hoặc dưới bàn. Bạn chỉ dạy trẻ 3 nơi trốn khác nhau.
- Bạn lặp lại từ “trốn” suốt quá trình làm bài tập rồi bảo trẻ trốn vào một trong những nơi trốn.
- Bạn bảo người khác hỏi: “Con ở đâu?” rồi giúp trẻ đứng lên hoặc đưa tay lên để chỉ trẻ ở đâu. Người kia phải chạy về phía trẻ và ôm trẻ.
- Khi trẻ đã học trốn và tự cho người ta biết trẻ khi người ta gọi trẻ, bạn kêu người khác đến phiên họ trốn một trong những nơi trốn. Khi bạn gọi “Ba đâu?”, bạn giúp trẻ tìm người ra từ chỗ trốn và chạy về phía họ để ôm họ.
- Khi trẻ bắt đầu hiểu bài tập, bạn động viên trẻ trốn một mình không trợ giúp.

GIÚP ĐỠ NGƯỜI KHÁC

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 2 - 3 tuổi
VẬN ĐỘNG TỔNG QUÁT, THÂN THỂ, 2 - 3 TUỔI
Mục đích: Hiểu những gì người khác mong muốn.
Mục tiêu: Bỏ tờ giấy trong thùng rác khi ta yêu cầu.
Dụng cụ: Khăn giấy, thùng rác.
Tiến trình:
- Yêu cầu gia đình giúp bạn làm bài tập này sau mỗi bữa ăn. Khi ăn xong, bạn giúp trẻ gom khăn giấy của trẻ và bỏ vào thùng rác (bạn bảo đảm trẻ đi đến thùng rác không vấn đề). Bạn ra hiệu cho trẻ vứt khăn giấy của trẻ vào thùng rác rồi trở lại bàn.
- Lặp lại công việc này với khăn của những người khác nhưng mỗi lần một cái.
- Yêu cầu mỗi thành viên trong gia đình đưa khăn của họ khi thấy trẻ và nói: “Con muốn vứt khăn này không?” vừa cười vừa nói “cám ơn” khi trẻ cầm khăn.
- Bạn khuyến khích các thành viên trong gia đình đánh giá cao những gì trẻ làm cho họ và cũng khuyến khích trẻ nhìn vào người mà trẻ lấy khăn (điều này có thể thực hiện khi trẻ nhìn người đưa khăn). Rồi bạn nói “cám ơn” và cười hoặc hôn trẻ.
- Khi trẻ có khả năng làm bài tập này tại bàn sau mỗi bữa ăn, bạn khái quát hóa công việc này bằng cách thỉnh thỏang trong ngày bảo trẻ vứt cái gì đó cho bạn (Chú ý, lệnh phải rõ ràng và trẻ biết giỏ rác ở đâu).

TRÒ CHƠI TƯƠNG TÁC VỚI XE TẢI

Xã hội hóa, tương tác cá nhân, 1 - 2 tuổi
VẬN ĐỘNG TỔNG QUÁT, CÁNH TAY, 1 - 2 TUỔI
Mục đích: Kích thích tương tác và cải thiện khả năng chơi.
Mục tiêu: Đẩy lùi xe tải đến người khác và quay lại.
Dụng cụ: Xe tải, bánh kẹo.
Tiến trình:
- Bạn ngồi dưới đất với trẻ, cách trẻ 1m và nói “Con nhìn,xe tải!”. Bạn đẩy xe tải chứa bánh kẹo mà trẻ thích về phía trẻ (bạn đảm bảo là trẻ quan sát bạn khi bạn để bánh kẹo phía sau xe tải).
- Sau khi trẻ nhận bánh kẹo, bạn khuyến khích trẻ đẩy xe tải về phía bạn.
- Lúc đầu cần có người thứ hai ngồi cạnh trẻ để giúp trẻ lấy bánh kẹo và đẩy xe tải. Khi trẻ đẩy xe tải, bạn chỉ cho trẻ bánh kẹo khác và lặp lại tiến trình.
- Lặp lại từ “xe tải” mỗi lần để trẻ quen nghe từ đó. Tiếp tục bài tập cho đến khi trẻ sắp hết hứng thú.

Phóng to (nhìn tổng thể) và thu nhỏ (nhìn chi tiết)

Nguồn www.autismgames.org

Đổi cự ly tầm nhìn

Một lý do khiến trẻ TK gặp khó khăn khi chơi là trẻ có khó khăn về khả năng nhận thức về “đổi cự ly tầm nhìn”. Hãy thử xem tôi có thể diễn giải khái niệm này giúp bạn hiểu được không nhé và sau đó bạn sẽ giúp tẻ học cách ...dễ dàng và thường xuyên hơn.

Khả năng thu nhỏ phóng to

Hầu hết chúng ta đểu có thể tập trung chú ý vào một chi tiết nào đó quanh mình - giống như chức năng zoom của máy ảnh. Chúng ta cũng có thể dễ dàng đứng lùi ra xa để lấy góc nhìn rộng hơn - giống như ống kính góc rộng của máy ảnh.

Ví dụ khi ta nhìn một cái ôtô, ta có thể lúc thì xem cái bánh nhỏ nó và xem nó quay như thế nào. Sau đó ta có thể chuyển hướng chú ý sang nhìn và coi tổng thể cái xe này như một phương tiện giao thông. Sau đó chúng ta chuyển hướng chú ý xa hơn nữa để xem đường xá nơi ta đang lái xe.

Nếu chúng ta đang chơi xe ôtô với bạn, chúng ta không khó khăn gì trong việc theo dõi xem bạn mình đang làm gì với cái xe ở khoảng cách 1 mét ... dù vừa trước đó chúng ta có tập trung hoàn toàn vào cái trục bánh xe ở trong tay bạn.

Chúng ta có thể đổi hướng chú ý sang trạng thái lên chuẩn bị lên kế hoạch và gợi ý là có lẽ hai đứa cùng cho sẽ chạy đua dưới đường thì sẽ vui lắm. Ngay cả nếu chúng ta tưởng tượng cuộc đua sẽ bắt đầu ở cửa bếp, chúng ta sẽ nhanh chóng nhất trí được là có thể bắt đầu được từ cuối đường đi gần nhà vệ sinh nếu bạn gợi ý nên làm thế hơn. Chúng ta có thể thống nhất được vì chúng ta tưởng tượng được cuộc đua sẽ ra sao theo cả hai trường hợp và không thấy như vậy khác biệt gì nhiều lắm.

Chúng ta có thể đợi bạn của mình đến cạnh mình ở lối đi và phối hợp để cùng xuất phát. Chúng ta sẽ thận trọng làm theo luật xuất phát mà cả hai đã cùng ra hẹn vì chúng ta tưởng tượng ra được là bạn mình sẽ bực thế nào nếu ta phá lệ xuất phát trước.

Sau cuộc đua, chúng ta có thể hiểu được nỗi thất vọng của bạn vì đã thua mặc dù rất vui vì đã thắng. Chúng ta cư xử đúng tinh thần thể thao vì chúng ta biết rằng mình còn muốn chơi với bạn lần nữa vào ngày mai.

Khả năng chuyển hướng tập trung vào một khía cạnh nhỏ của một tình huống và sau đó chuyển sang bức tranh tổng thể hơn mà không phải gắng sức mấy thì được gọi là khả năng đổi cự ly tầm nhìn.

Trẻ TK có vấn đề về loại khả năng này. Nó giống như chức năng chụp từ xa của máy ảnh bị kẹt ở một khoảng cách nhất định và không thể lùi xa hay lại gần hơn.

Trẻ TK có thể chuyển hướng nhìn từ bánh xe sang cửa xe. Nhưng đổi cự ly hướng chú ý sang nhìn cái xe như một tổng thể có thể sẽ rất khó một khi trẻ đã chăm chú tập trung chỉ vào bánh xe.

Đây là một lý do tại sao lối học theo kiểu drill type có thể rất hiệu quả với trẻ TK. Tất cả các mục trong drill đó đều ở cùng một cự ly tương tự. Ví dụ, "Cái xe này màu gì?" "Đỏ" Cái tàu này màu gì?" "Xanh" "Quả chuối này màu gì?" "Vàng".
Trẻ sẽ không bao giờ có thể tả là cái xe màu đỏ, tàu màu xanh và chuối màu vàng vì việc trả lời các câu hỏi về màu là một cự ly khác, còn việc nói về những gì bạn thấy về mặt màu sắc lại là một cự ly khác. Vì thế việc học của trẻ có vẻ rất rời rạch và không có ý nghĩa.

Với trẻ TK lớn hơn, vấn đề thay đổi cự ly nào có thể làm trẻ khó có thể chuyển từ một phần của bài tập toán về cộng sang bài tập về trừ — dù là hai dạng bài tập này dễ như nhau với trẻ.

Với trẻ học cấp 3, vấn đề có thể thể hiện ở chỗ phải hiểu đối thoại khi nó chuyển hướng từ chủ đề rộng sang chủ đề hẹp.
Nói cách khác: khó khăn này thể hiện ở mọi vấn đề và chúng ta cần phải tìm hiểu về nó.

Nhiều chiến lược nhằm giúp trẻ TK mọi độ tuổi thật ra là những bài toán giúp trẻ cải thiện khả năng này. Hoặc là những chiến lược lâu dài nhằm giúp trẻ trở nên linh hoạt hơn trong việc thay đổi cự ly tầm nhìn.

Tôi sẽ dùng một ví dụ từ buổi can thiệp gần đây của tôi để minh họa cho khái niệm này.

Tôi lấy một món đồ chơi mới để chơi với một anh bạn nhỏ của tôi — Andy. Đó là một thứ vừa là đồ chơi xây dựng vừa là đồ chơi giả vờ. Tranh xếp hình đó là loại để xếp vào khung. Bạn lắp hình một công viên bằng cách lắp những miếng gỗ vào đế gỗ.  Andy cũng thích xếp hình vào khung và biết cách làm.


Trớ trêu là Andy lại không nhìn đồ chơi đó như là một trò xếp hình.  Cậu chỉ thấy nó như một mảnh nhỏ thú vị, đam mê - con vịt.

Andy trở nên ham mê con vịt. Cậu nhanh chóng giữ khư khư lấy nó và chạy đi để không ai có thể lấy đi con vịt của cậu.
 

Cậu đứng cách xa tôi một đoạn, và nhìn đi nhìn lại con vịt khi sờ vào nó.  Cậu rất thích các đồ chơi hình con vật.

Giờ tôi có một lựa chọn: Từ bỏ việc dạy cậu chơi với đồ chơi hôm nay, buộc cậu phải chơi theo cách mà tôi muốn cậu làm (bạn có thể tưởng tượng ra rằng cách đó sẽ rất vui), hoặc sẽ tìm cách nào đó để chỉ cho cậu thấy những cách chơi khác với đồ chơi đó — tốt hơn là chơi giả vờ theo cách chơi tương tác vì mục đích hàng đầu của tôi là chơi với Andy có tương tác qua lại.


Và chính ở đây đã nảy sinh vấn đề phóng to thu nhỏ. Nhận thức tư duy của Andy xung quanh đồ chơi đó thật hạn hẹp (chỉ con vịt đó thôi) và chỉ bằng cảm quan (con vịt này nhìn và sờ thích thế nhỉ) chứ không có tính chất xã hội (mình muốn được chơi đồ chơi này một mình).
Tôi muốn mở rộng lối tư duy này rộng hơn con vịt. Tôi muốn chuyển hướng tư duy của cậu từ cảm giác về con vịt sang giả vờ con vịt đang làm gì đó. Tôi muốn làm cậu thích thú vì tôi cùng chơi đồ chơi đó với cậu.
 

Vì thế tôi bắt đầu từ bỏ hoàn toàn trò chơi đó và quay lại với những gì cậu thích tôi làm cùng cậu.
Tôi dụ cậu chạy vào vòng tay của tôi và xoay tròn cậu một vài lần. Tôi để cậu ngồi trong lòng đối diện tôi và ghì cậu xuống, để đầu cậu chạm sàn nhà và rồi kéo cậu lên đúng trò cậu thích. Rồi tôi nhanh chóng nói “Chuẩn bị, sẵn sàng…” và cậu nói “bắt đầu” để tôi lại ghì cậu xuống lần nữa.
 

Những trò tương tác vận động thể lực hầu như đều được Andy thích thú vì thế tôi chơi theo ý cậu một lúc. Tôi thậm chí không hề nghĩ đến con vịt cho đến khi cậu đã in đậm ý nghĩ là chơi với Tahirih rất vui.
Về vụ phóng to thu nhỏ, we did not shift very much from Andy's set. Andy đã tham gia vào một hoạt động cảm giác (thích thú những đặc tính thể vật lý của con vật) và vì thế tôi dừng lại ở một hoạt động cảm giác (xoay tròn và ghì xuống).
Giờ tôi đã là một phần của trò chơi cảm giác của cậu—đóng vai trò quan trọng trong trò chơi của cậu, vì cậu không thể tự quay tròn được như tôi làm. Chúng tôi đã thiếp lập một trò chơi tương tác vui vẻ. Tôi không còn là Tahirih kẻ có tiềm năng lấy đi con vịt của cậu. Tôi là Tahirih cho cậu một chuyến du ngoạn. Nhưng thực ra tôi đang lập mưu để lấy con vịt đó!
Khi tôi chơi với Andy, tôi di chuyển đến một góc trong phòng. Tôi đang ngôi trước mặt Andy làm sao để cậu không thể dễ dàng chạy băng quay phòng giống như lần trước cậu đã làm.
 

Tôi mang những mảnh xếp còn lại tới gần. Andy becomes aware that I might be setting him up so he lays down limp on his back with the duck clutched tightly in his hand and his hand down by his side. I slip the duck out of his hand while he looks away avoiding eye contact with Tahirih the duck thief!
But before he can react to my theivery, I quickly I replace the duck in his hand with the wooden boy. When Andy looks at it, I say “Hi boy!” and then quickly put the duck back in his hand. "Hi Duck!"
We play this little game over and over. I give him back the duck every other time. Each toy that I slip into his hand is greeted by me enthusiastically - “Hi girl!" "Hi duck!" "Hi mail box!" "Hi duck!" "Hi tree!" "Hi duck!"
Andy was tolerant of the game and increasingly participated until he voluntarily gave up any toy in order to see what came next.
Now his cognitive set includes both me as a play partner and more toys than just the duck. I had helped him shift his focus to include many more elements to his play. I had even been able to introduce a pretend play element into the play by saying hi to each character.
Andy sat up suddenly, clearly more ready to be engaged in play with me now that he understood what we were doing.
I brought out the doorway part of the toy and then and we started playing a game that went like this:
I knocked on one side of the door, he opened the door, I had a wooden piece on the other side of the door say “Hi” and the wooden piece (duck, boy, girl, mailbox, or tree) went through the doorway. We then said “Bye-bye” to the visitor and the wooden toy would leave by way of the door. We shut the door each time and started the game over.
We played this game with Andy enjoying it enough to independently send the duck back out the door (giving it up of his own volition).
Now the game was starting to look like pretend play. Could we put the doorway into the wooden base? We did and we started to move the pieces through the door on the track, just as is intended with this toy.
I do not believe that this game ever looked like a park to Andy — but he did learn to use the toy physically as it was intended. The doorway was an element of pretend play that made sense to Andy and he put pieces of the game into my hand to get me to play with them.
Andy was able to shift his understanding of the game from one that was narrow, perceptual and self-directed to one that was much wider, conceptual, and social.
Now, here is the easier way that I might have accomplished all this. I could have simply shown Andy a video clip of the game before I ever showed him the toy and he would have started with the cognitive set that I wanted him to have.
The whole toy would have seemed familiar as soon as he looked at it the first time and not just the duck. He would have known what we were going to do with the toy.
Regardless of what strategy you use, remember that it is very difficult for your child to shift attention, not just from activity to activity but also from a narrow focus to a wider focus, or from a wider focus to a more narrow focus within an activity. If you can see that this is the problem, you will be able to find ways to help your child zoom in and out as needed.

Tạo điểm chung để trẻ chịu chơi cùng

Nguồn www.autismgames.org

Creating Common Ground

Giao tiếp là tìm cách để chia sẻ trải nghiệm
share experiences. Bắt đầu từ đâu thường là vấn đề đau đầu với trẻ TK. Nó khiến bạn có cảm giác như thế mình sống trong một thực tế tư duy khác hoàn toàn và bạn chẳng có điểm chung gì để chia sẻ. Khi điều này là sự thực, bạn cần phải tạo ra một nơi gặp mặt. Phần nhiều là bạn sẽ thấy hẹn gặp ở nơi trẻ sống thì dễ nhất--thế giới tri giác (the perceptual world).Thế giới tri giác trước sự phát triển của kỹ năng ngôn ngữ, trẻ sống hoàn toàn trong thế giới trực quan hơn là ý niệm. Là thế giới cảm nhận sự vật hoặc nổi, hoặc vừa đúng bằng bàn chân, hoặc biến mất trong mồm, unroll off of a tube, nẩy lên khi thả xuống, đóng và mở, quay tròn. Khi nghĩ đến những ví dụ này, tôi đi vào thế giới ý niệm nơi tôi dành phần lớn thời gian ở đó. Ở thế giới đó tôi bắt đầu miêu tả bất cứ vật gì tôi nghĩ đến--một quả bóng bay, giày, thức ăn, giấy vệ sinh, bóng, cửa ra vào, con quay. For me to think of these examples, I went into the conceptual world of words where I spend most my time. In this world I began to described whatever objects came to mind--a balloon, shoes, food, toilet paper, a ball, a door, a spinning top.

Andy phớt lờ sự tồn tại của tôi
Andy là một trẻ, giống nhiều trẻ mà tôi biết, dường như phớt lờ mọi người và sống vui vẻ với việc trực cảm các sự vật--tròn tròn, nặng nhẹ, tiếng nẩy, tiếng nứt hoặc sập, tất cả những cảm giác này và cách chúng diễn ra. Andy không nghĩ về những gì mình đang làm, mà chỉ làm thôi. Đôi khi cậu cứ làm đi làm lại một hoạt động, như đóng cửa. Kể cả hoạt động này trông cũng rất vô thức như thể mỗi khi nhìn thấy cửa mở là cậu tiện thể đóng luôn. Dường cả đời đứa trẻ này chỉ có tốt hay xấu, thời khắc rồi thời khắc, dựa vào những gì diễn ra vào thời điểm đó. Khi hết bật rồi tắt đèn, cuộc sống của Andy trở nên hạnh phúc hơn. Andy không quyết định sẽ làm cuộc sống của mình vui như vậy, tự nhiên cậu thấy hạnh phúc khi điều khiển được cái đèn thôi. Khi phải đánh răng, cậu thấy đời thật tệ vì cảm giác cho bàn chải vào miệng thật tệ. Khi được ăn pizza, đời cậu lại đẹp. Andy cũng giống như mọi ai khác được ăn pizza.

Tôi tiếp cận Andy
Khi tôi gặp những trẻ như Andy lần đầu, tôi đi vào thế giới tri giác để cùng đồng hành với cậu. Tôi đem đến cho cậu những trải nghiệm tri giác mới để kết bạn với cậu. Tôi có thể đem đến một cuộn băng dính và bóc ra thành nhiều miếng để dán vào đầu gối, tường, đồ chơi. Tôi có thể mang đến một con quay vừa quay vừa có đèn sáng và nếu cậu thích con quay, tôi sẽ chỉ cho cậu cách quay. Tôi chủ ý tạo ra những trải nghiệm mới cho các giác quan và cùng tham gia vào các hoạt động. Là người cùng chơi, tôi thực sự thực cảm thấy thích thú với cảm giác dán băng dính lên chỗ này chỗ kia. Tôi trở nên hòa vào thế giới tri giác với Andy.

Làm cùng nhau
Tôi thực sự tận hưởng những gì tôi làm cùng Andy. Nếu tôi không thể thích được việc xé và dán băng dính với, mà chỉ bóc băng dính cho Andy và Andy tự chơi một mình thì tôi đang cho cậu một trải nghiệm đơn độc mới chứ không phải một trải nghiệm xã hội. Tôi không những hòa cùng Andy, mà tôi còn giúp cậu dần nhận thức ra là chúng ta là một liên minh joint venture. Băng dính có thẻ để ở cao trên giá sách và tôi có thể sẽ lấy nó xuống một cách trật vật và kịch tính--hết lần này đến lần khác, vì mỗi lần tôi chỉ lấy một miếng nhỏ thôi. Tôi không làm vậy để thưởng Andy vì đã chơi với tôi--mà để nhấn mạnh là chúng ta cùng trải nghiệm việc nghịch băng dính. Tôi biết các trải nghiệm giác quan có thể ngốn nhiều trí lực đến mức Andy sẽ quên tôi đang ở đó, trừ khi tôi tìm cách giúp cậu hướng sự tập trung qua lại giữa tôi, bạn chơi của cậu và cái băng dính.

Dẫn dắt Andy vào thế giới ý niệm

Tôi chỉ rắp tâm hòa đồng với Andy, mà tôi còn nhanh chóng đưa thêm vào trải nghiệm chung của hai người một khuôn khổ ý niệm. Tôi thêm ý niệm Trước tiên/Sau đó kèm trợ giúp minh hoạt First/Then Visual Support vào trò chơi để cậu biết, ví dụ, sẽ chơi băng dính trước rồi mới chơi con quay sáng đèn. Khi Andy bắt đầu cảm nhận rằng hai bức tranh xếp thành hàng có thể thể hiện ý niệm thời gian, cậu đang bước vào thế giới ý niệm của các biểu tượng. Trước tiên/sau đó là một khuôn khổ ý niệm cho phép ta "bàn luận" tiếp theo sẽ là trải nghiệm tri giác nào. Thẻ Đầu tiên/Sau đó trong lần chơi tiếp theo sẽ là tranh chạy rồi uống. Tôi biết là Andy thích chạy và nước quả. Cậu chẳng quan tâm trong hai thứ này thì ta sẽ làm cái nào trước nhưng cậu có thể sẽ nhận ra trình tự diễn ra hai thứ này. Trình tự tranh Trước tiên/Sau đó có thể sẽ đưa lại thông tin thú vị với Andy, giống như bản tin thời tiết buổi sáng thú vị thế nào với tôi.

Khi tôi giới thiệu thẻ tranh Trước tiên/Sau đó lần đầu, tôi không nghĩ đến việc sử dụng thẻ tranh này để điều khiển hành vi của Andy. Tôi thực sự không cố bắt Andy phải làm hoạt động này trước rồi mới thưởng cho Andy hoạt động tiếp theo dù tôi có thể tận dụng quyền năng này của mình đôi lúc. Ban đầu thì hoàn toàn không hề. Tôi không muốn phí phạm cơ hội để dạy này vào việc dạy cậu biết nghe lời ngay từ đầu vì tôi nhắm tới một tham vọng cao hơn thế. Tôi muốn Andy trở nên hứng thú quan tâm đến thế giới ý niệm. Trước tiên/Sau đó là một thế giới hoàn toàn khác thế giới băng dính vào đầu gối hay chăm chú nhìn con quay quay hay chạy và uống. Đó là thế giới tư duy về những gì không diễn ra ở thì hiện tại. Đó là cái làm cho nó là ý niệm chứ không phải là tri giác.

Mở rộng thế giới ý niệm
Dần dần tôi sẽ đưa thêm vào các lịch trình trực quan có nhiều sự kiện liệt kê theo trình tự. Andy có thể thấy trước là kế hoạch của chúng tôi là 1) nghịch băng dính 2) đánh răng 3) xem con quaya có đèn sáng. Giờ, trong thế giới ý niệm, Andy có thể quyết định cuộc sống tốt hay xấu dựa trên một khoảng thời gian rộng hơn là là khoảnh khắc hiện tại. Cuộc sống có vẻ không đến nỗi tệ quá nữa, mặc dù phải cho bàn chải vào mồm nếu bạn biết là bạn sắp được xem con quay rồi. Một trình tự như vậy không chỉ là cách để thưởng cho trẻ đã chịu đựng phải đánh răng mà nó còn là một cách để mở rộng hơn tầm nhìn của trẻ khiến trẻ có thể dự đoán tương lai phía trước tốt hơn.

Với những tranh biểu tượng này, tôi còn tặng cho Andy một cách để có thể trực tiếp giao tiếp một cách cụ thể về trải nghiệm sẽ hoặc đã diễn ra. Chung tôi sẽ vẫn có thể cùng làm một hoạt động tại một thời điểm nhưng chúng tôi còn có thể cùng nghĩ về những gì sắp diễn ra. Chúng tôi có thể thích thú với ý tưởng cùng bóc băng dính. Tôi có thể thông cảm với cậu về ác mộng phải đánh răng tiếp theo. Và chúng tôi có thể dự đoán trước niềm vui chúng tôi sẽ cùng có khi chơi quay cùng nhau. Chúng tôi chia sẻ tình cảm và ý tưởng trước khi những điều đó xảy ra trong thế giới tri giác. Sau đó chúng tôi hoàn thành lịch trực quan, chúng tôi có thể nhìn vào và cùng hiện thực hóa nó,
re-live it all together. Chúng tôi có thể diễn dịch nó theo một cách mới khi Andy đã học thêm ngôn ngữ mới. "Băng dính này dính quá--con không thích bị dính dính ở tay!" "Bàn chải đánh răng khiếp quá!" (Tôi có thể gợi ý là nó hơi khó chịu) "Con quay sướng thật!" Có thể sẽ mất nhiều, nhiều tháng rồi Andy mới có thể nghĩ trước và phản hồi cùng tôi như vậy, nhưng Andy đã trở thành một người bạn thích ở với tôi cũng như tôi thích ở với cậu. Hai chúng tôi, đã cùng tạo ra điểm chung để giao tiếp. Đó là nơi kết nối giữa thế giới ý niệm và tri giác.

Làm thế nào để cha mẹ giao tiếp và chơi với con tốt hơn?

Cha mẹ thường rất lúng túng không biết bắt đầu từ đâu khi con mình bị chuẩn đoán có TK. Mình sẽ nên làm gì trước tiên, sau đó nữa?

Tôi không thể trả lời tất cả các khía cạnh trong việc nuôi dạy một trẻ TK. Nhưng để giúp bạn biết cách bắt đầu như thế nào khi muốn dạy con chơi và giao tiếp, tôi gợi ý bạn đọc bài Làm thế nào để thay đổi cách nói chuyện của bạn trước sau đó đến phần Làm cho trò chơi có tính dự đoán I, rồi đến Chơi thế nào thì tốt cho giao tiếp. Bạn có thể đọc phần thảo luận về cách bắt đầu với trẻ rất hãy tự làm theo ý mình và không dễ tham gia vào tương tác xã hội ở blog của tôi,
Creating Common Ground.

Nếu trẻ vẫn chưa biết nói, hãy đọc bài Máy nói
Talking Buttons và nên cân nhắc việc mua bốn máy nói vì như thế việc dạy trẻ chơi các trò ở đây sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Sau những bài này, bạn có thể đọc phần Các bí quyết khi chơi theo bất cứ trật tự nào. Bạn hãy gửi cho tôi thêm gợi ý về bí quyết chơi nhé.

Cùng chơi chung đồ chơi

Khuyến khích trẻ chú ý đến bạn và một đồ chơi nào đó
Trẻ TK thường muốn điều khiển đồ chơi và các vật dụng khác khi chúng đang làm gì đó. Như đã giải thích ở đây
here, mọi trí lực của chúng đều tập trung vào đồ chơi. Bạn, người chơi cùng trẻ, thì chẳng hề được quan tâm đến! Điều này làm cho việc xây dựng kỹ năng giao tiếp và tương tác giữa bạn và con bạn trở nên khó hơn. Mà mục tiêu là để tạo ra một hoạt động mà bạn là một phần không thể tách rời trong giờ chơi của trẻ.

Dưới đây là một vài chiến thuật để giúp bạn khuyến khích con chú ý đến bạn và đồ chơi.

Bạn là người cung cấp đồ chơi
Hãy tưởng tượng trẻ muốn chơi xếp hình có khung. Bạn có thể ngồi cạnh trẻ và chơi xếp hình. Nhưng rất có thể con bạn sẽ lờ bạn đi. Thậm chí tệ hơn là trẻ có thể thấy bạn như người xen ngang. Trẻ có thể rất bực nếu bạn thậm chí dám sờ vào miếng xếp hình. Trẻ coi bạn như là rắc rối phiền hà!
Nhưng nếu bạn giữ tất cả miếng xếp hình và bạn nghĩ ra một cách đưa chúng cho trẻ thật sáng tạo, thì bạn sẽ không phải là người xen ngang nữa. Mà bạn đang cung cấp cho trẻ cái trẻ cần theo một cách rất thú vị.

Hãy cho trẻ đồ chơi một cách sáng tạo
Một số dụng cụ có thể giúp bạn cung cấp đồ chơi cho trẻ một cách thú vị. Đây là một số dụng cụ rất hữu hiệu trong việc tạo ra một khoảng cách nhỏ giữa bạn và đồ chơi trẻ thích.

xe tải đồ chơi toy trucks
máng nước
cầu trượt
ống
túi nhựa trong đóng miệng
cửa đóng

Sử dụng chúng thế nào? Hãy xem đoạn video sau!



Tự biết chuyển hướng chú ý
Chiến lược này dạy cho trẻ biết tự chuyển hướng chú ý giữa bạn và đồ chơi. Trẻ sẽ phải chú ý đến bạn vì bạn có thứ đồ chơi tiếp theo quan trọng! Trẻ sẽ tự đổi hướng chú ý để hoạt động tiếp tục diễn ra. Giờ bạn đang tương tác với trẻ một cách tích cực và vui vẻ.

Cơ hội để trao đổi bàn luận
Hãy tưởng tượng trẻ muốn chơi với nhận vật Pooh Bear characters. Là người đem đến đồ chơi, bạn thả những nhân vật này xuống ống máng. Trong đoạn video sau, chúng tôi dùng các vòng gỗ nhiều màu.

Giờ bạn đã có một cơ hội hoàn hảo để đưa giao tiếp có lời vào trò chơi. Bạn có thể nói "Con muốn gấu Pooh, không phải hổ hả!" "Con nhìn gấu Pooh!" "tạm biệt, gấu Pooh, gấu đang đến đây này!" trong khi bạn thả gấu xuống máng trượt, hoặc bạn lấy gấu Pooh Bear ra khỏi túi nhựa trong, hoặc bạn đặt gấu ở thùng xe tải và đẩy về phía trẻ.

Cũng giống máng trượt, xe tải cho bạn một cách thú vị đem đồ chơi đến cho trẻ. Bạn có thể nói, "Cho gấu lên xe, chở gấu đi!"

Hãy xem lại đoạn băng chơi với xe tải để xem chiến lược này hữu ích thế nào. Hãy nghĩ cách để sử dụng ngôn ngữ trong trò chơi này. Bạn đã có ý tưởng rồi đúng không?

Khi trẻ phản đối
Như bạn biết đấy, không phải lúc nào những chiến lược này cũng có thể dễ dàng tiến hành được dễ dàng, trôi chảy, không bị trẻ phản đố. Bạn hãy kiên định với điều này: Đồ chơi phải là từ bố hoặc mẹ cho và mỗi lần chỉ đưa 1 thứ thôi.

Nếu trẻ phản đối quá, hãy cất đồ chơi đi và thử lại vào dịp khác. Bạn có thể quay băng video mẫu cho trẻ xem quá trình chuyển tiếp. Hãy để trẻ theo dõi người khác chọn và lấy đồ chơi từng thứ một.

Hãy đối thoại khi đồ chơi trong tầm mắt trẻ nhưng ngoài tầm với của trẻ
Nếu bạn có một bộ sưu tập các vật mà con bạn thích, bạn có thể để trẻ nhìn thấy nhưng không thể lấy được những thứ này.

Hãy cho đồ vật vào một cái chai nắp đóng chặt. Hoặc túi nhựa hoặc lọ nhựa trong cũng được vì trẻ sẽ vẫn nhìn thấy mà không tự lấy được vật trẻ muốn. (I like zip lock bags. At least some kids don't know how to get in them.) You may need to clutch one end of the bag, though!

Ví dụ trẻ muốn bánh bích quy. Nếu bạn chỉ đưa trẻ bánh, thì chẳng có cơ hội nào để hai người tranh luận gì cả! Nhưng nếu cho 2 loại bánh vào hai túi trong khác nhau, bạn đã tạo ra cơ hội để trẻ phải trao đổi trước khi ăn!

Bạn có thể nói "Con muốn bánh màu hồng..." (chỉ vào bánh màu hồng) "hoặc bánh màu nâu?" (chỉ vào bánh đã ăn mất 1 phần). Bạn có thể nói "có thể Bố đã ăn mất rồi. Không được, Bố, không được ăn bánh nâu."

Bạn có thể nhìn lại hai cái bánh và nói, "Bánh hồng trông ngon ghê! Nào, đầu tiên lấy đĩa đã nào." Bạn có thể dẫn con ra chỗ lấy đĩa và nói "Ta cần một cái đĩa, rồi sau đó sẽ ăn bánh hồng." Khi không có đĩa trong tủ, bạn có thể nói "Đĩa đâu nhỉ? và tìm đĩa trong máy rửa bát.

Có thể như vậy đã quá nhiều lời với trẻ rồi. Hoặc bạn có thể kéo dài quá trình này hơn. Nhưng nếu không có túi nhựa trong thì cuộc đối thoại giữa bạn và trẻ về cái bánh có thể đã ngắn hơn.

Với cái túi ngăn không cho trẻ lấy được, trẻ sẽ có thêm động lực để phàn nàn về cái bánh nâu đã bị ăn mất một phần, lấy đĩa, rót thêm cốc sữa để uống cùng, đợi trong khi bạn rót sữa, ngồi xuống cùng với bạn (đối thoại với bạn) và sau đó ăn bánh cùng bạn.

Các nguyên tắc sử dụng máy tính

1. Hãy quyết định khi nào con bạn sẽ sử dụng máy tính một cách chủ động, và khi nào thì hạn chế như là ti vi. Máy tính có tiềm năng trở thành một công cụ giáo dục tuyệt vời và cũng tiềm năng trở thành mối gây hại khủng khiếp cho sự phát triển về xã hội của con bạn.

2. Hãy sử dụng máy tính như một động cơ xã hội (social motivator) hơn là một khoảng nghỉ giải lao xen giữa các can thiệp về xã hội. Có nghĩa là tìm những cách để tương tác với con bạn và giúp con bạn tương tác với các người khác bằng máy tính và nhấn mạnh rằng máy tính được sử dụng như là một công cụ xã hội.

3. Không vội vàng dạy con bạn có thể sử dụng máy tính độc lập. Ví dụ, không vội vàng dạy con sử dụng con chuột mà thay vào đó hãy giữ điều khiển con chuột càng lâu càng tốt. Sẽ tiến hành được nhiều hơn các can thiệp xã hội một cách tự nhiên nếu bạn điều khiển chuột. Ngay từ đầu, hãy lần lượt quyết định những gì sẽ làm với máy tính. Sử dụng chiến lược “đến lượt con, đến lượt mẹ” ngay từ lúc bắt đầu. Tất nhiên bạn là người lớn không xếp lượt để chơi các trò chơi máy tính này, nhưng bạn cũng vẫn chơi khi đến lượt bạn, như vậy con bạn có thể học cách cho bạn và người khác cùng chơi trên máy tính, điều này cũng thiết lập cho con bạn có thể chơi với các bạn hay với anh chị em của cháu trên máy tính.

4. Ngay từ khi bắt đầu, hãy dạy con bạn cách dừng chơi máy tính mà không khó chịu. Không bao giờ cho con bạn chơi máy tính thêm một chút nào với lí do con phải miễn cưỡng dừng sử dụng. Hãy sử dụng đồng hồ đếm thời gian, đồng hồ, hoặc biể đồ thời lượng (duration chart) để con bạn biết cháu có thể sử dụng máy tính trong bao nhiêu lâu. Sử dụng thời gian biểu bằng hình hoặc bằng chữ viết để con bạn biết cháu sẽ làm gì sau khi rời khỏi bàn máy tính. Nếu cần thiết, đặt một tờ giấy to có ký hiệu dừng lại gần chỗ máy tính và đặt nó lên trước máy tính khi đã đến giờ dừng chơi máy tính, và để tờ giấy đó sử dụng tiếp cho đến khi con bạn rất OK khi sử dụng máy tính lần tiếp theo.

5. Hãy giúp con bạn sử dụng những kiến thức mới hoặc những kỹ năng mới học từ máy tính ở những nơi khác và trong những hoàn cảnh thực tế xã hội. Ví dụ, nếu con bạn đang chơi máy tính trò chơi Dora game: Dora đi tìm châu báu ở đâu và Tên cướp Swiper cố gắng ăn trộm châu báu một cách định kỳ, sau đó cải biên thành trò chơi bạn cũng đi tìm châu báu cùng với con bạn ở quanh nhà. Không dừng lại ở mức này – dành thời gian để nghĩ ra làm thế nào để tổng quát hóa bước này: áp dụng cho bất cứ các trò chơi trong máy tính mới nào bạn giới thiệu cho con bạn nếu có thể. Xu hướng trẻ trong phổ tự kỷ học từng phần rời rạc, và không có sự kết nối giữa những gì được học ở trường hợp này với những gì học ở trường hợp khác. Máy tính trở thành như một thế giới ảo thay thế và những kỹ năng học được trong máy tính không có tác dụng trong thế giới thực tế. Hãy nói rõ cho trẻ về việc dạy các mối quan hệ giữa các thông tin học được ở nhiều nơi khác nhau. Con hãy nhìn, bố đang chơi như là tên cướp. Bố không cướp, bố không cướp, bố không cướp.

6. Không cho con bạn chơi những trò chơi làm tăng các hành vi hung hăng. Các em càng xem nhiều các đoạn băng làm tăng thêm các hành vi hung hăng thì càng hung hăng hay phá hoại các thứ. Nhiều gia đình cuối cùng phải loại bỏ (hoặc cất đi chỗ khác trong một vài năm) một bộ chơi game đắt tiền mà họ có thể mua vì yêu con, là vì những trò chơi ở bộ chơi game đó gây ra các vấn đề về hành vi ở trẻ. Trẻ trong phổ tự kỷ, theo định nghĩa, có hồ sơ phát triển không bình thường, có nghĩa trẻ đó có thể phát triển ở mặt này hơn các mặt khác. Nhiều trẻ trong phổ tự kỷ phát triển về mặt cảm xúc kém xa so với về trí tuệ, và như vậy bạn hãy tự phán đoán, chứ không căn cứ vào độ tuổi của con bạn để chọn hoạt động với máy tính nào là có tính giáo dục và thích hợp.

7. Hãy thận trọng rằng sự kiên quết hạn chế máy tính của bạn có thể giảm tác dụng nếu bạn không cẩn thận. Vâng, máy tính có thể dạy con bạn nhưng kỹ năng mới. Và vâng, con bạn có thể thực sự thích thú thời gian sử dụng máy tính...Nhưng tôi đã thấy nhiều cặp cha mẹ phải đấu tranh với đứa trẻ nghiện máy tính và coi máy tính như là thuốc độc. Tôi cũng thấy những trẻ muốn gây bạo lực để có thêm thời gian chơi máy tính. Tôi là một người tự biết mình là yếu đuối, là bậc cha mẹ mà để cho các con tôi bước qua tôi, nhưng tôi sẽ nói cho bạn với tất cả sự khiêm nhường rằng máy tính là một trong những chỗ mà bạn cần phải đặt giới hạn và không cho con bạn sử dụng đáp ứng theo nhu cầu của con được. Việc sử dụng máy tính không kiểm soát được là một tiềm năng gây phá hủy gia đình, cũng tương tự việc cho con bạn xem quá nhiều đĩa hình, hoặc cho con bạn được đòi hỏi bạn mua bất cứ thứ gì khi bạn đi mua bán, hoặc cho con bạn đòi hỏi bạn làm cho nó một món gì khác vào bữa ăn tối. Có những nhu cầu của trẻ có thể đoán được chắc chắn, nếu bạn nhượng bộ với trẻ, có thể làm cho cuộc sống gia đình rất khó khăn và làm hại hơn là có lợi cho con bạn. Sử dụng máy tính không kiểm soát được là một trong những điều đó. Ngay cả những người thiếu kiên quyết như chúng ta cũng có thể ôm máy điện thoại vì một chuyện gì đó.

8. Máy tính là một dụng cụ tuyệt vời đối với tất cả chúng ta, và nhiều người trong chúng ta thích máy tính một cách quá mức, nhưng tất cả chúng ta phải học sử dụng máy tính mức độ và đúng mức – bao gồm cả con trong phổ tự kỷ của bạn. Việc này làm cho dễ dàng hơn để giải quyết chủ động vấn đề này, còn hơn là tạo sự thay đổi các nguyên tắc trong gia đình, nhưng nếu cần thiết, hãy cất máy tính đi, sau vài tháng thì bắt đầu lại với những qui tắc mới. Máy tính có tiềm năng làm phong phú cuộc sống của con bạn hiện tại và suốt đời nếu bạn giúp con bạn sử dụng máy tính một cách thích hợp.

9. Có những cách sáng tạo gần như không có giới hạn mà bạn có thể sử dụng máy tính để giúp con bạn học các kỹ năng và thông tin, để kết nối con bạn với người khác, để tận hưởng thời gian bên con bạn để học hỏi cộng đồng và những điều thú vị mới. Hãy lập ra các nguyên tắc sử dụng máy tính và cùng vui thích với máy móc, tất cả cái đó có thể làm cho con của bạn.

Những từ diễn tả cái không trọn vẹn

Máy nói

Làm thế nào để thay đổi cách nói chuyện của bạn

Trước tiên: Hãy trờ thành đối tác giao tiếp tốt hơn

Bạn học cách giao tiếp khác đi thì sẽ dễ hơn là trẻ học. Hãy cố gắng thay đổi thói quen giao tiếp của mình để bạn trở thành đối tác giao tiếp tốt hơn trước khi bạn cố gắng dạy trẻ những kỹ năng giao tiếp mới. Hãy học lấy 3 điều sau.

1) nói câu ngắn thôi
2) hỏi ít hơn
3) thể hiện cho trẻ thấy bạn định nói gì

Tại sao 3 điều này quan trọng?


Hãy thử tưởng tượng bạn đang học ngoại ngữ. Bỗng nhiên bạn đến một thành phố mới mà không có phiên dịch. 3 điều gì sẽ giúp bạn học ngoại ngữ nhanh nhất? Giờ chắc bạn đã thấy sự cần thiết của 3 điều này rồi phải không? Sẽ dế hơn cho bạn nếu người dân ở đó nói câu ngắn, không hỏi bạn nhiều những câu bạn không thể trả lời được, và thể hiện ra điều họ muốn nói.

Nhưng nếu con tôi hiểu hết những gì tôi nói thì sao?

Đây là tin buồn Trẻ của bạn hiểu ít hơn, chứ không nhiều hơn mức bạn tưởng. Tôi thường quay băng và xem lại cùng bố mẹ để chỉ cho họ thấy điều này hoàn toàn có thật, không ngờ lại là sự thật. Ngay cả bản thân tôi cũng thường hay nghĩ trẻ hiểu nhưng thật ra không phải thế và khi xem lại băng quay tôi nhận ra điều đó. Bạn dễ tự cho rằng khi mình giao tiếp, mọi người hiểu mình. Trẻ đôi khi có thể hiểu bạn vì tình huống đó quen thuộc hoặc vì trẻ tập trung vào bạn lúc đó hoặc vì bạn đã gợi ý bằng trực quan cho trẻ mà bạn không nhận ra. Nhưng hiểu nhầm là chuyện thường tình hơn là ngoại lệ với trẻ TK.

Nếu con bạn nhiều hơn những gì trẻ có thể nói, việc sử dụng 3 điều này vẫn có tác dụng. Trẻ sẽ dễ sử dụng dạng câu mà bạn dùng nếu câu ngắn hơn, cụ thể hơn, và dễ nói hơn. Dần dần, bạn sẽ dạy trẻ cấu trúc ngôn ngữ phức tạp hơn, hy vọng là trị liệu ngôn ngữ sẽ giúp được trẻ. Nhưng với trẻ không có nhiều ngôn ngữ của chình mình, ba điều này rất quan trọng.

Nếu trẻ không chịu lắng nghe thì làm thế nào?

Tin mừng là: Trẻ sẽ lắng nghe bạn hơn, tìm cách bắt chước những gì bạn nói hơn, và thích tương tác lới bạn hơn nếu bạn áp dụng 3 điều này. Nhiều trẻ không chú ý đến lời nói nữa chỉ vì nó quá khó hiểu. Nếu bạn làm cho lời nói dễ hiểu hơn, thì những trẻ này sẽ lại chăm chú nghe.

Tôi sẽ học 3 điều này như thế nào?

Câu ngắn: bạn có thể truyền đạt cùng ý tưởng đó nhưng dùng ít từ hơn. 1) "Anna, con yêu, mẹ cầm nhiều thứ không xuể tay, con giúp mẹ mang chồng tất này lên gác được không?" 2) "Anna (đặt chồng tất vào tay trẻ), giúp mẹ, mang lên gác (chỉ lên gác)."

Bí quyết: Hãy nói câu chỉ dài hơn câu trung bình của trẻ từ 1 đến 3 từ. Không áp dụng cái này với lời thoại (Scripted Language)

Nếu câu nào tôi nói cũng là câu hỏi thì sao?

Đây là xu hướng mà tôi thấy hầu hết các cha mẹ đều mắc phải và hầu hết cha mẹ đều phải mất đến 3 tuần để quen với việc kể chứ không hỏi. Ví dụ kể là " Đây là Kitty". Hỏi là "Đây là cái gì?"

Hãy giảm thiểu câu hỏi chỉ hỏi những câu hỏi thực sự: Khi hội thoại với con hàng ngày, hãy chỉ hỏi con khi con biết câu trả lời và khi bạn chưa biết câu trả lời thôi. "Con muốn nước quả hay sữa?" là câu hỏi thực sự. "Cái này màu gì?" là kiểm tra nhỏ vì bạn đã biết nó mầu gì rồi. Nếu bạn muốn dạy trẻ thêm từ mới, hãy dạy như tôi trình bày ở bài Dạy trẻ từ vựng mới teach your child new vocabulary.

Chỉ cho trẻ thấy điều bạn muốn nói

Hãy dùng demo, các trợ giúp trực quan, và ngôn ngữ Lời thoại (Scripted Language) để giúp trẻ hiểu bạn muốn nói gì.

Demo: Bạn nên nói "Xem nhé! Mẹ làm cho con xem này" thường xuyên đến mức trẻ phải quay sang bạn ngay khi bạn nói vậy và xem bạn sẽ làm gì tiếp. Hãy dùng trợ giúp trực quan như hình hai cái mắt để nhắc trẻ nhìn.

Bạn có thể diễn tả nghĩa những gì bạn nói một cách nôm na khi bạn nói về điều bạn làm. Ví dụ "Đây là nước quả. Mẹ sẽ rót nước quả. Một chút thôi. Không nhiều quá. Oh! Con muốn nữa à. Con có thể nói "Thêm nước quả". Mẹ sẽ rót thêm một ít nữa. Nữa à? Con khát nhỉ! Mẹ sẽ rót thật nhiều!" Đây là chiến lược "nói song song". Nghĩa là vừa nói vừa làm. Hãy nhớ bí quyết này và sử dụng câu độ dài vừa phải.

Trợ giúp trực quan: Trợ giúp trực quan là những gì có thể nhìn trực quan được giúp trẻ hiểu rõ hơn. Có rất nhiều web sites bàn về chủ đề này và tôi khuyên bạn nên dành thời gian ở đó. Tôi dùng ảnh, và tất nhiên cả video clips, và tôi sẽ dùng ngôn ngữ viết ngay khi trẻ tỏ ra quan tâm. Tôi sẽ nói thêm về phần này.

Lời thoại (Scripted Language): Là một tập hợp các từ hoặc đoạn câu mà trẻ sẽ hiểu ngay vì bạn rất hay nói đến. Một khi trẻ đã nghe những từ đó đến mức độ rất hiểu, bạn sẽ dùng những lời thoại đó để giúp trẻ tập trung sang bạn và hiểu dù nhiều phần lời nói trẻ không thật sự hiểu. Bạn có thể bắt đầu với một vài lời thoại mà bạn rất hay dùng trong nhiều hoạt động, trò chơi. Dần dần bạn sẽ thêm nhiều lời thoại khi bạn thấy trẻ hiểu hơn.

Ví dụ, ban đầu bạn bắt đầu với câu thoại "Sẵn sàng, chuẩn bị, tiến!" để dạy trẻ biết là bạn muốn nói là, "ở đây sắp xẩy ra một việc!" Nhiều video clips ở trang này sử dụng ngôn ngữ này. When you use language routines, you will use the exact same words, said, perhaps even in the exact same way, so that your child becomes familiar with the word combination and the melody of the phrase. "Uh Oh!" means that something bad just happened. "Yikes!" means the same thing. But with children who are just learning to put words together, you may not want to have too many ways to say that something bad just happened. Restrict yourself to "Uh Oh!" and "Yikes" and use these instead of "Oh...What happened now?" and "This is a mess!" and the thousand and one other ways that you could discuss a recent disaster. Khi vốn ngôn ngữ của trẻ đã khá hơn, bạn có thể tăng số lời thoại lên và sử dụng nhiều ngôn ngữ của riêng mình hơn--nhớ là phải sử dụng demo và thận trọng quan sát xem trẻ có thực sự hiểu bạn nói gì không. Mục đích là để trẻ sẽ dần thấy bạn là một người dễ hiểu..

Ví dụ các kiểu lời thoại

Đã xong

Một lần/cái nữa là xong

Đầu tiên/Sau đó

Sẵn sàng...chuẩn bị...làm!

Đến lượt mẹ/con

Khó phết!

Xem đã

Con đang buồn!

Con đang tức!

Con đang vui!

Con vẫn ổn

Ở đâu rồi?

Tìm đi!

Lại đây!

Cái đó khác!

1,2,3

Bye bye

Oh!

Không!

Chà!

Ồn quá!

Đi chỗ khác!

Chúng ta sẽ ổn

Con làm đi!

Xin lỗi!

Thử lại nhé

Ngạc nhiên chưa!

Wow!

Hmmmm.

Mẹ có tin vui!

Mẹ có tin buồn!

Để mẹ nghĩ đã

Đợi đã nào

Dừng/thôi

Của mẹ

Tôi thường nói những từ này kèm với động tác cử chỉ minh họa.

Tại sao tôi không được dùng từ "nữa"?

Bạn có thể thấy là tôi không cho từ "nữa" vào danh sách này. Đó là bởi vì từ này thường sẽ trở thành một từ a cognitive pothole word. Nó mầu nhiệm đến mức con bạn sẽ sử dụng nó cho mọi thứ thay cho các từ khác. Nó có nghĩa "Con muốn một thứ" "Hãy bật đồ chơi ấy đi" "Làm lại đi" "Con muốn cái nữa" "làm ơn" "đi" "cho con". Mà tôi thì muốn dạy trẻ những từ cụ thể, nếu được, để diễn đạt những gì trẻ thực sự muốn.

What about sign language?
About Signing: By all meanslearn and use ASL signs or use the Baby Signs if your child has trouble imitating signs since these are a little less challenging in terms of motor skills! Use ASL signs along with demonstrations, visual supports and Scripted Language Routines. The aim is that you increase your child's understanding when you communicate with your child.
A few useful signs are explained at this site. Many other sites on the Internet will help you lean useful signs.

Trò chơi thế nào thì tốt cho giao tiếp?

Trò chơi phải làm cả hai người chơi thích thú

1. Làm ta thích chơi với nhau và cùng tham gia vào một hoạt động. Có nghĩa là một trò đơn giản có thể là trò hay nhất! Đừng nghĩ đến những gì phức tạp, mà hãy chọn cái gì vui nhộn!

2. Hãy chú ý đến biểu lộ nét măt, điệu bộ và động tác. Bạn quan sát để chia sẻ tình cảm và có thêm thông tin. Bạn quan sát để chắc chắn là trẻ hiểu và thích những gì bạn đang làm. Bạn quan sát vì bạn có thể cần có những điều chỉnh tinh tế hoặc làm đồng thời một số việc khác để đó sẽ là một giờ chơi thú vị. Để giúp con quan sát bạn tốt hơn, bạn có thể cần phải làm điệu bộ giao tiếp lâu hơn, kịch tính hơn, và hướng sự chú ý đến những tín hiệu giao tiếp tình cảm quan trọng để trẻ không bỏ sót chúng. Có thế bạn sẽ phải làm cho trò chơi bớt phần phức tạp để trẻ tập trung đến bạn thường xuyên hơn.

3. Hãy hưởng ứng với nhau. Nghĩa là cùng nhìn vào các vật, nhìn nhau và phản hồi lại những gì người kia làm. Bạn có thể làm được điều này bằng biểu lộ nét mặt, điệu bộ, âm thanh, hát, lời nói, có hoặc không có đồ chơi. Nếu trò chơi mà hay thì trẻ sẽ thích chơi kiểu này đến mức trẻ trở nên sẵn lòng và có thể chơi với bạn. Nếu trẻ chịu chơi lâu hơn với bạn, hưởng ứng hơn với các thứ bạn làm và đợi được nhiều lượt hơn so với tháng trước là bạn đã thành công rồi đấy. Tương tự, nếu bạn chơi với trẻ lâu hơn, hưởng ứng hơn với nhiều thứ trẻ làm hơn và chơi được nhiều lượt hơn tháng trước là bạn đã thành công rồi.

4. Bắt đầu và chọn trò chơi. Cả hai người đều phải biết cách bắt đầu trò chơi. Hãy đặt cho mỗi trò chơi một cái tên và dùng tên đó ngay cả khi trò đó đã biến đổi khác đi nhiều sau một thời gian. Nếu trẻ vẫn chưa nói, hãy chụp ảnh thứ gì đó tượng trưng cho trò chơi và luôn lấy ảnh ra khi bạn chơi trò đó. Đã đến giờ chơi trò Squish, bạn có thể nói vậy và lấy gối dựa ở ghế ngồi ra. Tranh ở đây có thể là hai cái gối chồng ở trên sàn phòng khách. Sau này, trò này có thể có cả đoạn nhảy lên lưng bố và bố dựa lưng vào ghế ngả - squishing in a new way. Không cần thiết phải đổi tranh, khi trò chơi có thay đổi. Dừng trò chơi khi trẻ vẫn còn thích trò đó, để tạo cơ hội cho trẻ khởi xướng trò chơi lại. Sẽ có lúc con bạn được quyết didnhj chơi gì và có lúc bạn quyết định. Nếu con bạn đòi quyết định mọi lúc, hãy sử dụng lịch trực quan để chỉ rõ ai sẽ là người quyết định trò tiếp theo. Ví dụ: 1) Trò của Andy 2) Trò của bố 3) Trò của Andy 4) Trò của bố 5) Ăn nhẹ. Gạch tên người đã đến lượt đi. Hãy giúp trẻ biết quyết định và chia sẻ quyết định với bạn. (Việc này được nêu rất tỉ mỉ trong phương pháp can thiệp RDI và tôi khuyên ban nên xem cuốn này
this book để đọc sâu thêm về chủ đề này.)

5. Hãy giao tiếp vì nhiều lý do trong khi chơi. Hãy nghĩ đến trò chơi như là việc tham gia vào hoạt động để thực tập các kiểu giao tiếp khác nhau. Bạn có thể chơi các trò để thực tập việc gọi, kể lại, trêu, lo lắng, băn khoăn, giải thích, nhớ lại, phân tích, từ chối, đùa, giả vời.... Một trò có thể kết hợp một hai ý tưởng trên như tròGọi tên
Calling Games on this page. Hãy xem một ví dụ đơn giản về chia sẻ cảm xúc ở trò Bowling Pin Gutter Game. Trò này chủ yếu là về diễn bộ mặt các trạng thái cảm xúc. Khi trẻ đã làm tốt trò này rồi, hãy chơi các trò giao tiếp với nhiều mục đích khác nhau phức tạp hơn. Tóm lại, trong một trò, bạn có thể kết hợp nhiều ý tưởng giao tiếp khác nhau như gọi, kể chuyện, và chia sẻ tình cảm.

6. Hãy kết hợp cả di chuyển trong trò chơi. Cùng di chuyển với nhau. (Đây là một ý tưởng rất hay của phương pháp RDI ). I loved this picture of kids walking together in homemade box shoes. What a simple moving together game! It would be hard to miss the fact that everybody had box shoes. Hãy tạo ra một không gian riêng để chơi, phối hợp di chuyển trong cách trò chơi đó để bạn và trẻ ở cạnh nhau khi di chuyển. Xem trò Cùng di chuyển Moving Together Game để thêm ví dụ về loại trò chơi này.

7. Cùng ôn lại kỷ niệm. Có thể dùng ảnh, video, hoặc ghi nhật ký để ghi lại những gì thú vị bạn đã cùng làm. Tôi thường nói với cha mẹ nếu bạn muốn giúp con có thêm kỹ năng ngôn ngữ mới, hãy tìm cách cùng chia sẻ kỷ niệm và làm việc này thường xuyên. Bạn có thể gợi nhớ lại lúc đó đã vui, sợ, khó khăn, ngộ như thế nào. Trẻ TK có xu hướng nhớ những gì đã xảy ra nhưng không nhớ cảm giác lúc đó thế nào. Nếu bạn nhớ lại việc gì vui vẻ, hãy giúp trẻ nhớ lại làm thế nào để có lại cảm xúc vui vẻ đó sau khi hoạt động đó kết thúc. Nhiều trẻ lại chỉ nhớ phần tiêu cực mà không nhớ phần tích cực của một sự việc. Ví dụ, nếu bạn có ảnh trẻ đang khóc ở sân bay khi đến thăm nàh bà, hãy chụp cả ảnh trẻ đang ngồi vui vẻ ở trên máy bay xem video. Nhớ đừng cố tránh phần tiêu cực, vì bạn sẽ có thể dạy được trẻ rất nhiều về giao tiếp khi bàn về phần này và còn giúp trẻ nhớ lại sự bình phục cảm xúc nữa.

8. Hãy giúp trẻ biết kiên tâm khi giao tiếp bị ngắt quãng. Khi giao tiếp bị đứt đoạn, nhiều trẻ TK trở nên vô cùng thu mình, hoặc bỏ chạy hoặc rối loạn cảm xúc emotional meltdown. Bạn hãy hiểu những hành vi này của trẻ là những ngắt quãng trong giao tiếp mà trẻ chưa biết cách sửa chữa. Bí quyết để dạy trẻ cách sữa chữa những trục trặc trong giao tiếp là bình tĩnh chỉ cho trẻ thấy giao tiếp đã bị làm rối lên như thế nào, cách nhắc lại một thông điệp, làm thế nào để làm rõ nghĩa, và làm thế nào để không bỏ cuộc quá dễ dàng. Hãy chỉ cho con thấy cần nói và làm gì khi trò chơi đi trệch hướng. Bạn hãy làm mẫu cách sửa chữa tình huống bằng cách nói những câu kiểu như sau, Mẹ chưa hiểu! Hãy nói lại rõ hơn nào! hoặc chỉ cho trẻ cách sử dụng những từ như Uh Oh!

9. Hãy thực hành khả năng linh hoạt
flexibility. Cha mẹ (và các trị liệu viên) có thể bị bế tắc khi lên kế hoạch chơi và kết cục là họ là tấm gương thiếu linh hoạt thay vì linh hoạt cho trẻ. Hãy coi chừng điều này. Hãy thêm vào những thay đổi nhỏ khi bạn chơi để trẻ có thể thấy dù có chút thay đổi, nhưng đó vẫn là trò chơi đó. Nên nói rõ ra nếu trẻ hiểu lời bạn nói. Ví dụ, hãy nói, đây là một cách chơi mới của trò này, chắc là cũng hay hoặc, Uh Oh! mẹ sẽ làm theo cách khác vậy. Cách này không được.

10. Hãy thực hành các từ vựng mới
vocabulary và các cách kết hợp từ mới word combinations. Mỗi lần chỉ dùng một vài từ mới thôi nếu trẻ mới biết nói. Nếu trẻ nói được nhiều rồi, hãy chủ ý thêm cách từ mới và cụm từ thú vị vào trò chơi. Khi trẻ thêm những từ mới và thú vị, hãy nhiệt tình hưởng ứng trẻ ngày cả nếu trẻ vẫn chưa thực sự biết cách sử dụng những từ mới đó chuẩn xác. Các từ và cụm từ mới thường làm trẻ rất thú, nhất là nếu từ đó kịch tính hoặc vui nhộn hoặc là âm thanh mạnh. Kính thưa bà con, mời bà con đến với đường đua mầu nhiệm của Andy! thì sẽ nhộn hơn là nói Con hãy làm một đường đua thật phê ở đây Andy.

11. Dừng chơi khi trò đó không còn vui nữa. Bạn nên dừng chơi khi bạn thấy mệt vì nếu không bạn sẽ truyền cho trẻ thông điệp bạn không còn thấy trò này vui nữa. Trẻ cần dừng chơi khi trẻ không còn thấy vui nữa nếu không trẻ sẽ không muốn chơi với bạn lần sau vì bạn không biết dừng khi trò đó không còn vui thú nữa. Đây không phải là trại lính mà là trò chơi.

Tư duy linh hoạt

Tư duy cũng giống như cơ bắp

Bạn có thể giúp trẻ phát triển tư duy linh hoạt hơn theo cách mà bạn làm cho cơ bắp linh hoạt hơn: bằng cách thử thách nhưng suy nghĩ mới mẻ trong mức độ chịu được và không vượt quá giới hạn đó.

Nếu bạn làm cho cơ bắp vượt quá ngưỡng chịu đựng, cơ bắp sẽ bị thương và quá trình tập linh hoạt hơn sẽ mất thời gian hơn. Giống như cơ bắp, tư duy cũng chỉ chịu được thử thách vừa phải nhưng tư duy sẽ chỉ thêm linh hoạt nếu bạn thử thách nó.

Tư duy linh hoạt là tư duy chấp nhận được, thậm chí thích thú những trải nghiệm mới. Một tư duy linh hoạt có thể học hỏi được từ những trải nghiệm mới và tổng hợp những thông tin mới với những thông tin đã học từ trước. Hầu hết chúng ta, cũng giống trẻ TK, sẽ bị lẫn lộn và ngợp nếu có quá nhiều thứ mới xảy ra cùng một lúc. Chúng ta sẽ mất tinh thần hoặc rút lui. Trẻ TK cũng vậy, và nếu bạn quan sát kỹ, bạn sẽ biết khi nào mình đã đưa ra quá nhiều thông tin mới hay thay đổi quá nhiều thứ.

Trẻ TK cần có khả năng tham gia và hiểu điểu gì đang diễn ra quanh mình, và thế nghĩa là chúng muốn cách hoạt động và lịch trình phải dự đoán được. Nhưng mục tiêu phải là dần dần giúp trẻ chấp nhận và cuối cùng thích thú những trải nghiệm và ý tưởng mới.

Quá trình "thử thách này" sẽ diễn ra thế nào?
Đây là một ví dụ từ buổi can thiệp của tôi. Tôi chơi búp bê với một bé gái tên là Rosita. Rosita không thích tôi sờ vào các con búp bê. Khi tôi nhặt búp bê lên, bé sẽ hét lên và nhìn tôi đôi chút (mà thường bé chỉ làm khi có gì quan trọng).
Tôi cân nhắc hai cách để thử thách tư duy của bé sao cho bé chịu chấp nhận tôi (và sau này là trẻ khác) và trò chơi của bé.

Cách 1
Tôi có thể làm một cái gì đó dễ dự đoán và thú vị với búp bê. Tôi hy vọng Rosita sẽ bắt đầu nhận ra quy luật đó khi tôi làm việc đó.

Tôi thử làm như sau: cho tất cả búp bê nằm úp mặt xuống và nói, Chúc ngủ ngon, búp bê bố. Ngủ thôi. Shhhhh. và ngay sau đó dựng tất cả búp bê dậy và nói, Dậy thôi, búp bê bố ơi! Dậy thôi búp bê mẹ ơi!

Lần trước chiến thuật này tỏ ra hữu hiệu. Nhưng lần này thì không. Tôi nghĩ Rosita đã chuẩn bị sẵn tinh thần để tôi không xen ngang vào giờ chơi búp bê của bé.

Cách 2
Vì thế tôi chọn cách khác. Tôi gợi ý với Rosita là có một cách khác để cho tôi biết là cô bé khong thích tôi lấy búp bê đi. Tôi cho bé một giải pháp thay thế là hét.

Mỗi khi Rosita phản đối, tôi lại làm mẫu cho bé thấy bé có thể nói gì để tôi không lấy búp bê đi. Cô bé thích ý tưởng đó và tận dụng nó mọi dịp.
Chúng tôi thực hành việc này và cả hai đều đạt nguyện vọng hôm đó. Rosita thì toại nguyện vì đã bảo được tôi không sờ vào búp bê khi nói , cô không được sờ vào đó, TAHIRIH! mỗi khi tôi lấy búp bê. Tôi đạt được mục tiêu của mình là làm cho cô bé tương tác với tôi.

Tạo ra một trò chơi "không sờ vào"
Tôi sẽ làm ngón tay đi về phía búp bê bố, và nói, cô sẽ lấy búp bê bố. Và khi tôi sờ vào, Rosita sẽ nói tôi không sờ vào. Tôi sẽ thuận theo, lúc thì tự nguyện, lúc thì miễn cưỡng.
Rosita sẽ dần chấp nhận là tôi sẽ sờ vào búp bê. Cô bé chấp nhận vì tôi thường đưa trả lại ngay. Tư duy của bé hôm đó đã linh hoạt biết chấp nhận hơn.
Hơn nữa bé đã không còn tự chơi một mình với búp bê nữa nếu tôi cứ để bé chơi một mình. Mà , Rosita và tôi đã rất bận rộn với việc bàn xem tôi có được sờ vào búp bê không. Chúng tôi bất đồng một cách chủ động và hòa bình trong khoảng 20 phút gì đó.

Đây quả là một bước tiến tuyệt vời! Tiếp theo là gì nhỉ?

Khi Rosita và tôi chơi lần tới, tôi có thể nói với bé, một phút, rồi cô sẽ trả búp bê bố lại cho con. Tôi có thể chơi một lúc khoảng 1 phút một cách thú vị. Tôi có thể thử các ý tưởng, hy vọng, để cùng chơi với búp bê bé thích hoặc ít nhất bé chịu.

Đem âm nhạc vào các trò chơi

Tạo ra các quy luật dự đoán được khi chơi

Mấu chốt vấn đề: Làm thế nào để trò chơi có thể tạo ra tính dự đoán

Mọi trò chơi đều theo một lịch trình, một trình tự với các yếu tố dự đoán trước được như di chuyển, đồ dùng và/hoặc lời nói. Mỗi trò chơi như Dr. Arnold Miller nói có thể là một "hệ thống". Tôi nghĩ tính dự đoán trước của trò chơi sẽ là “mấu chốt” tôi sử dụng để rủ các bạn trẻ của tôi tham gia, một cách tự nguyện để chơi với tôi. Trẻ tham gia vì tôi đã tạo ra một quy luật dự đoán được về di chuyển, đồ dùng, và ngôn ngữ và trẻ biết tôi sẽ làm gì tiếp.

Khi trẻ đã chịu tham gia rồi, tôi có thể thêm các yếu tố mới trong trò chơi để dạy trẻ những kỹ năng giao tiếp hoặc xã hội mới. Vẫn dùng hình ảnh của Dr. Miller, việc học hỏi sẽ diễn ra khi bạn ngắt quãng hệ thống đã thiết lập, chỉ một chút thôi, và thêm một số yếu tố mới để trẻ phải cân nhắc, và hành động để duy trì và thiết lập lại hệ thống. Trò chơi chỉ tạo ra một khuôn khổ có tính quy luật dự đoán được để trẻ nhận ra và không bỏ qua các yếu tố mới.

Khi bạn đã hiểu ý tưởng dùng tính quy luật dự đoán làm mấu chốt cho mình, bạn có thể tạo ra nhiều trò chơi mới lôi cuốn đuợc trẻ tham gia với bạn. Hãy xem các video clips ở trang này, đọc phần miêu tả, và suy ngẫm đâu là trình tự dự đoán được ở mỗi trò chơi. Ở mỗi trò, sẽ có những khoảnh khắc trẻ phải hành động nếu không trò chơi sẽ dừng lại. Cả hệ thống sẽ bị ngắt quãng.

Trẻ cần hiểu được trình tự trước tiên (học chơi) rồi sau đó sẽ có cơ hội để trẻ tham gia duy trì trò chơi. Sử dụng Video clip làm mẫu các trò chơi mới có thể rút ngắn thời gian học này và giúp trẻ học nhanh hơn, còn không bạn cứ demo cho trẻ thấy trình tự rõ ràng của trò chơi cũng ổn. Khi bạn đã hiểu được điều này rồi, bạn sẽ nhanh chóng tự nghĩ ra các trò chơi!

Hãy là một người chơi cùng dễ dự đoán

Sáng nay tôi chơi trò xếp hình với một anh bạn mới. Anh bạn không chịu đến tham gia khi xếp hình được đổ ra sàn nhà, dù anh bạn đó biết cách và rất thích chơi xếp hình. Anh bạn không biết tôi và không thích thú việc ngồi cạnh một người lạ (khó dự đoán trước được). Trong con mắt của anh bạn này, chẳng thể tìm thấy hệ thống quy luật nào.

Trò xếp hình có các con vật trên miếng ghép và anh bạn này biết tên của một vài con vật. Vì thế tôi gọi tên một số miếng ghép một mình, Cừu? Cậu ở đâu rồi? Sau đó tôi nhặt miếng ghép có hình cừu lên và gõ 3 lần xuống sàn nhà trước khi đặt nó vào khung. Tiếp tôi lại gọi Bò! Cậu ở đâu rồi? Và tôi lại gõ miếng ghép xuống sàn nhà rồi đặt nó vào khung. Tôi cứ tiếp tục như vậy.

Chẳng mấy chốc, anh bạn của tôi lại gần tôi để nhìn. Tôi đã tạo ra một hệ thống và anh bạn đã bắt nhịp được hệ thống đó. Tôi đưa anh bạn một mảnh ghép mà không nhìn anh, rồi anh bạn gõ miếng ghép xuống sàn nhà và cho vào khung. Anh bạn không nói câu của tôi, nhưng cũng làm giọng điệu giống như giọng điêu cảu tôi gọi tên các con vật. Khi tôi đưa miếng ghép cho cậu, hệ thống này sẽ bị ngắt quãng nếu cậu khong gõ nó ba lần và đặt vào khung. Vì thế cậu đã làm vậy. Một cách hân hoan.

Cậu chơi vài lượt là mê chơi với tôi. Tôi đã trở thành một người bạn dễ dự đoán. Tôi cũng thêm một yếu tố dự đoán được thú vị vào trò chơi xếp hình. Dưới con mắt của cậu, như vậy thật ngộ! Dưới con mắt của tôi, điều này là cần thiết để thiết lập mối quan hệ và bắt đầu cùng chơi với cậu.

Sức ép từ mọi người

Tôi muốn nói lại là tôi không nhìn cậu bạn này, bảo cậu làm gì, hay thậm chí khen cậu làm giỏi quá! Như vậy sẽ tạo một sức ép từ bên ngoài buộc cậu phải tương tác. Như vậy sẽ làm trò đó bớt vui thú đi theo một cách mới. Khen cậu sẽ làm ngắt quãng mạch của trò chơi. Đôi khi cũng nên khen những anh bạn nhỏ này. Còn phần lớn thời gian thì làm vậy sẽ lái sự linh hoạt đi lệch hướng khi trò chơi đang diễn ra trôi chảy. Tính dễ dự đoán và việc cùng tham gia một trò vui với ai đã là một phần thưởng và thế là đủ rồi.

Trò chơi trốn tìm

What is the perfect first game?
Peek-a-Boo is the prototype game for teaching young children to interact socially. Just Google search Peek-a-Boo on the images search engine and you will see dozens of pictures of children playing Pee-a-Boo.
This game illustrates perfectly how universal, motivating, and enjoyable this simple social game is for young children. If you think about this game as the perfect basic structure for teaching joint attention and reciprocity (the back and forth of interaction), you can create many early games to play with your child.
Important characteristics of this game
Peek-a-Boo is visually simple: hands on face, hands off face, smiling face.
The verbal sequence is simple. Say Peek-a-Boo in a melodic way when your hands come off your face and then laugh.
The game is cognitively simple. It is all about hiding and finding (an early cognitive interest enjoyed by most children).
Peek-a-Boo is easy to initiate. Put your hands on your face, or under a scarf, or even just get behind a door, and peek out again.
Peek-a-Boo has a predictable outcome: the beloved face always reappears!
Just a little exciting anticipation. How long will I wait? When will she emerge? Not yet....not yet... NOW!
Variations are endless. Peek-a-Boo leads to Hide 'n Seek, and to treasure hunts.
The roles in this game are clear. Either person can play either role. One person hides, the other person waits, both people smile and laugh as the hider emerges
For a wonderful discussion of how this and other simple games can be used to coax young children with autism into social play, read Sibylle Janert's, Reaching the Young Autistic Child (see references).
Notice the problems your child has playing Peek-a-Boo
The specific difficulties that your child may have with playing Peek-a-Boo illustrate how you may need to modify any game to make it successful for your child.
Emotional Regulation Difficulty
If your child can't tolerate the excitement of looking into your eyes, try moving a little farther away, being a little less animated or loud, looking at your child for a little less time.
Motor Planning or Spatial Security Difficulty
Your child may not be able to hide his or her eyes (because it is a hard motor action or because your child feels insecure his or her eyes closed). If so, try using a scarf. Even a scarf that you can see through can be effective!
Attention Shifting Difficulty

Maybe your child does not notice that you are trying to play. Try using a heavy scarf and put this over your child's head briefly before pulling it off and singing out "Peek-a-Boo!” with a smile. This would be hard to ignore.
Lack of Social Interest
Your child may not yet be convinced that interacting with others is as much fun as interacting with things. Maybe you will want to play this game by hiding and popping out from behind a door because doors might be interesting to your child.
Saying the words
If your child can’t imitate words yet, put the words Peek-a-Boo on a Talking Button and get someone else to help your child play the game. One person can hide, while the other person uses hand over hand to help your child learn to push the talking button at the right time.
There is surely a version of this game that will fill your child's heart with social delight! Modifying the game will helps you understand how to modify other games.

Nội dung trang Các trò chơi và Video

Nguồn www.autismgames.org

Bạn sẽ thấy có những trò chơi mà trẻ TK thích chơi theo chủ đề. Tôi sẽ tiếp tục bổ sung thêm các trò chơi và có băng quay minh họa!

Trang Các Trò chơi

Cả gia đình chơi
Families at Play
Trong đó có cả một số bí quyết để giúp cả nhà chơi vui vẻ và sẽ có một thư viện các trò chơi cho cả gia đình.
- Giải thích tại sao bạn cần cả gia đình tham gia vào các giờ chơi can thiệp cho trẻ.
- Cách tổ chức một giờ can thiệp với tranh minh họa
- Ví dụ hay về các trò chơi cả gia đình với băng quay minh họa

Cùng di chuyển
Moving Together
Chúng tôi rất khuyến khích trẻ chơi các trò này vì chúng giúp trẻ phối hợp các động tác của mình với người khác, và giúp trẻ tập trung và học ngôn ngữ nhanh hơn.
Trang này thảo luận về các trò chơi có di chuyển trong khi chơi. Các trò này sẽ giúp trẻ luôn ở cùng địa điểm với người khác, biết cách phối hợp chuyển động với người khác, và phản hồi khi người khác di chuyển mà vẫn vui nhộn. Với từng trò kiểu này, mục đích học có thể khác nhau.
- Trò Piggy Back Games, bạn sẽ bế trẻ đi quanh để trẻ ở cùng địa điểm với bạn và cùng chú ý vào một vật với bạn. Có thể dạy trẻ các kỹ năng ngôn ngữ bằng cách này vì trẻ dễ đoán trước được hành động của người chơi cùng.
- Dậm lên chữ là một trò có thể được sử dụng để dạy nhiều bài về ngôn ngữ cũng như các kỹ năng xã hội như đợi lượt, chỉ đường, định hướng đi với băng minh họa with demonstration clip Row, Row, Row Your Boat with demonstration clip
- Nóng quá! là trò chơi mà mọi người sẽ chạy đến một cái gối đỗ khác khi có người hét Nóng quá!
Luật chơi là gì? mỗi người chơi sẽ nghĩ ra một điều kiện để mọi người phải di chuyển sang túi đỗ khác, hoặc thay đổi nơi chốn, băng minh họa Demonstration clip.

- Chúng tôi đi được không? là trò mà hai người chơi sẽ bước từng bước một và cùng ngã vào một đống túi đỗ hoặc đu qua lại trên xích đu hoạc làm gì đó cùng nhau, băng minh họa with demonstration clip.

- Bước lên, là trò hai người cùng bước lên một số bước và cùng làm gì đó sau mỗi bước. Đây là một trò chơi làm theo hướng dẫn, đòi hỏi sự phối hợp, nó còn là trò chơi ngôn ngữ diễn đạt, chia sẻ tình cảm nữa, băng minh họa 1 demonstration clip one và 2 demonstration clip two.


Gọi và chào Calling and Greeting
Với trẻ TK việc đáp lại lời gọi và gọi người khác, chào người khác lại khó khăn đến không ngời. Đây là một số trò chơi để giúp trẻ học được những kỹ năng này và thực tập trong những tình huống không quá phức tạp.

Đến đây với tôi
Come Be With Me
Đây là những trò chơi giúp trẻ biết vui được ở bên một ai đó và khiến người đó tương tác.
Bàn cách dạy các trò tương tác sớm
Trò đánh trống bắt chước theo có băng minh họa
Trò cù ki có băng minh họa
Trò đu quay và quay tròn có băng minh họa
Bàn các trò củng cố giác quan và chơi tương tác qua lại
Bàn cách trẻ có thể chủ động khởi xướng chơi tương tác qua lại


Trò chơi đi theo lộ trình
Route Games
Trò này giúp sẽ di chuyển có chủ ý từ một nơi này đến nơi khác và làm những việc có chủ ý ở mỗi nơi.

Học cách chỉ
Learning to Point
Đây là những trò chơi giúp trẻ biết chỉ -- cả hướng theo ai đó chỉ và tự mình chỉ.

Trò chơi Có/Không
Yes/No Games
Những trò này giúp trẻ học những ý nghĩa khác nhau của Có và Không bao gồm cả gật và lắc đầu.

Chia sẻ cảm xúc
Sharing Emotions
Bày tỏ tình cảm với trẻ TK có thể là việc rất rối rắm nhưng những trò này là những cách đơn giản để giúp trẻ học về tình cảm và điều tiết cảm xúc của chính mình.

Búp bê gia đình
Family Dolls
Là dùng các hình người bằng giấy để chỉ cho trẻ thấy nên làm gì và giúp trẻ chơi trò đóng giả vờ làm các việc với gia đình và bạn bè.

Tôi sẽ bảo bạn phải làm gì
I'll Tell You What to Do
Trẻ TK sẽ thích học về mệnh lệnh nếu được ra lệnh nhiều hơn nhận lệnh. Đây là một số trò giúp trẻ học sử dụng mệnh lệnh ở cả hai vai trò.

Đến lượt cô đến lượt con
Your Turn My Turn
Các trò đợi lượt và hội thoại là một khái niệm phức tạp nhưng có một số trò và một số bí quyết giúp trẻ dễ thực hiện hơn.

Học từ vựng I
Teaching Vocabulary I
Học từ vựng II
Teaching Vocabulary II
Là những trò chưoi làm cho việc học từ vựng vui nhộn và có ý nghĩa hơn.

Cách áp dụng những trò chơi ở trang web này?

Hầu hết các trò chơi này đều đơn giản đến không ngờ. Chúng đơn giản đến mức hầu hết cha mẹ đều không nghĩ đến việc chơi những trò này với con. Hoặc có khi họ không biết là những trò đó quan trọng thế nào với trẻ.

Việc chọn trò chơi cho trẻ nên dựa trên cái trẻ cần học và trẻ thích gì. Không mấy khi tôi có thể áp dụng ngay các trò chơi này mà không điều chỉnh để phù phù hợp với từng trẻ, vì thế bạn đừng bỏ cuộc quá sớm.

Nếu bạn có thứ đồ chơi tương tự với một đoạn video ở đây và con bạn chịu xem, hãy giới thiệu trò đó cho trẻ. Chỉ cho trẻ cách chơi và cho trẻ cơ hội tham gia nhưng đừng thúc ép trẻ tham gia. Ban đầu, hãy cố chỉ dùng đúng những lời chúng tôi dùng trong video mẫu (đừng nói nhiều hơn thế) và đừng thay đổi lời nói giữa các lần chơi. Trẻ sẽ thích chơi nhiều trong số các trò này vì chúng có tính quy luật có thể dự đoán trước được--trẻ sẽ biết cần phải làm gì trong khi chơi. Khi trẻ đã biết chơi và thích chơi, bắt đầu thay đổi các phần khác nhau của trò chơi từng tý một để trẻ thấy dù có thay đổi nhưng trò chơi vẫn vui. Nếu bạn giữ nguyên trò chơi như vậy, trẻ sẽ không học hỏi thêm được điều gì mới khi chơi. Nếu bạn thay đổi trò chơi quá nhiều, trẻ có thể sẽ phản đối hoặc bỏ chơi.

Bạn có thể muốn thay đổi trò chơi từ ban đầu bừng cách dùng cách đồ hấp dẫn hơn (hoặc đồ bạn có), thay đổi tốc độ và độ phức tạp của trò chơi (làm cho trò chơi dễ hoặc khó hơn). Bạn cứ thay đổi trò chơi sao cho trẻ thấy và luôn luôn thích thú trò đó. Tôi hy vọng những trò chơi đó sẽ khơi gợi sự sáng tạo của bạn.

Cách sử dụng video clip?

Bạn có thể sử dụng chúng để làm mẫu, nghĩa là bạn cho trẻ xem trước, sau đó bạn làm với trẻ. Như vậy bạn và trẻ sẽ tiết kiệm được thời gian và những phiền toái khi học một trò chơi mới.

Bạn có thể sử dụng các clip tôi tải lên You Tube để làm mẫu giúp bạn có thể chơi với con sao cho hấp dẫn trẻ. Bạn có copy ý tưởng nhưng tự làm một video của chính mình để làm mẫu cho trẻ. Như thế trong video trẻ sẽ thấy chính bạn và những đồ chơi của bạn--như vậy có thể hấp dẫn trẻ hơn nhiều. Video clips quay anh chị trẻ hoặc bạn cùng lớp cũng có thể hấp dẫn với trẻ.

Bạn hãy lưu ý là là trong các đoạn băng video đó, chúng tôi hạn chế sử dụng lời nói và tăng cường sử dụng nét mặt và ngữ điệu. Đó là những khía cạnh rất quan trọng! Hãy lưu ý là những đoạn quay đó không chuyên nghiệp hẳn. Bạn không nhất thiết phải biết cách biên tập lại hay làm gì phức tạp để làm ra chúng cho trẻ. Khi cần làm một đoạn video để dạy trẻ, chỉ cần mang máy ra quay mẫu một đoạn thôi. Nếu bạn có máy quay, hãy dùng chúng như một dụng cụ dạy học cho trẻ. Rồi bạn sẽ ngạc nhiên dụng cụ đó có tác dụng diệu kỳ như thế nào!

Chọn trò chơi theo trình độ của trẻ

Nguồn www.autismgames.org
Chọn trò chơi không khó quá cũng không dễ quá

Chọn được trò chơi hay hoạt động phù hợp cho con vừa dễ mà vừa phức tạp. Sẽ là dễ nếu bạn bày trò mới ra mà trẻ tham gia ngay không ngần ngừ. Ok. Vậy là trò này phù hợp! bạn tự nhủ. Sẽ là phức tạp nếu bạn cố gắng chọn hoạt động theo mức độ phát triển của con vì trẻ TK thường phát triển không đều. Thang đánh giá mức độ phát triển của con có thể hữu ích mà cũng có thể không. Tôi muốn giúp bạn có một cảm quan chung liệu một trò chơi có phù hợp với con bạn không. Con bạn sẽ thích một trò nếu nó không quá dễ cũng không quá khó. Tôi sử dụng linh cảm nhiều nhất và linh cảm của tôi thường khá chính xác sau nhiều năm huấn luyện trẻ một cô một trò. Tôi cũng đọc về cách đánh giá khác của mọi người trong nghề để phân loại trẻ theo các mức độ phát triển hay giai đoạn phát triển và nó càng làm cho linh cảm của tôi thêm chính xác. Nhiều hệ thống đánh giá tôi đọc qua rất phức tạp và thiên về lý thuyết nên tôi không thể nhắc tới ở đây và hy vọng mọi người sẽ hiểu nó được nếu không đọc một cách nghiêm túc.
SCERTS, là một thang đánh giá cũng thiên về lý thuyết, nhưng lại có một hệ thống tương đối đơn giản xếp loại trẻ thành 3 cấp độ phát triển. Tôi đã dành nhiều thời gian để giảng giải hệ thống này cho cha mẹ vì tôi sử dụng SCERTS để theo dõi mức độ phát triển. Tôi sẽ cố gắng giảng giải những cấp độ này một cách dễ hiểu ở đây để giúp bạn chọn trò chơi phù hợp cho trẻ. (Lời giải thích của tôi ở đây rất đơn giản nhưng đủ để hiểu, tôi hy vọng vậy). Để xem chi tiết hơn về hệ thống tổ chức chương trình can thiệp của trẻ, hãy xem SCERTS Assessement and Intervention Guide Books.

Cấp độ 1: Đối tác xã hội - Social Partner Stage

Là những trẻ chưa nói được hoàn toàn và vẫn còn khó khăn trong tương tác xã hội, dù chỉ một khoảnh khắc ngắn. Chúng đang trong quá trình trở thành Đối tác giao tiếp nhờ các kỹ năng học hỏi như Cùng chú ý và Tương tác qua lại, và các công cụ giao tiếp có chủ ý như từ và điệu bộ. Trò chơi cho trẻ ở cấp độ này thường nhằm huy động mối quan tâm của trẻ đến các trải nghiệm qua giác quan để lôi kéo trẻ vào tương tác xã hội. Hãy xem bài Tạo lập ra nền tảng chung Creating Common Ground nói về cách kéo trẻ ở cấp độ này tham gia tương tác xã hội. Trang trò chơi liên quan nhiều đến cấp độ này là Đến đây với tôi Come Be With Me. Cùng chú ý, tương tác qua lại, và những từ đầu tiên có nghĩa là mục tiêu và sẽ là kết quả của việc chơi với trẻ ở cấp độ này.

Cấp độ 2: Đối tác ngôn ngữ - The Language Partner Stage

Đây là những trẻ đã biết chủ ý giao tiếp nhưng vẫn còn lúng túng với những thứ cơ bản. Chúng còn phải học để giao lưu được lâu hơn. Chúng còn phải học để biết giao tiếp như thế nào, tại sao và khi nào. Chúng có vốn từ vựng trong khoảng 100 từ. Hầu hết các trò chơi ở trang web này phù hợp cho cấp độ này. Tuy nhiên ta vẫn có thể cần cải biên các trò đi để bớt cách bước, để trẻ không phải đổi hướng chú ý quá liên tục. Các trò chơi có thể cần cải biến để sử dụng đến các vật dụng hấp dẫn hơn... Kết quả từ việc chơi với trẻ ở cấp độ này là trẻ có thể giao lưu được lâu hơn và tự có những hành vi giao tiếp mới. Trong khi chơi, trẻ sẽ trải nghiệm giao tiếp vì lý do mới, với người mới, chủ đề mới thì sẽ như thế nào.

Cấp độ 3: Đối tác trong đối thoại - Conversation Partner Stage

Đây là những trẻ có thể tự nói ra những câu của riêng mình và có thể giao tiếp trong những mục đích giao tiếp cơ bản nhưng vẫn còn loay hoay để có thể duy trì hội thoại. Đây là những trẻ đang học cách kể lại những gì đã xảy ra hoặc một điều gì tưởng tượng ra. Những trẻ này thường chật vật khi phải tư duy linh hoạt để có thể tham gia hôi thoại hoặc trò chơi. Nhiều trò chơi ở trang web này vẫn phù hợp với trẻ ở cấp độ này nhưng tôi thường tăng mức độ phức tạp các trò cho trẻ này để rủ thêm các bạn khác. Tôi có thể tăng mức độ phức tạp bằng cách thêm nhiều trò chơi tưởng tượng. Tôi dành nhiều thời gian để lên kế hoạch chơi và kể lại những gì đã diễn ra với các trẻ này hơn. Tôi cũng cùng phân tích với trẻ chúng tôi đã cảm thấy thế nào về trò đó. Chắc chắn là tôi cần có nhiều biến tấu hơn trong giờ chơi và giữa các giờ chơi.

LinkWithin

Related Posts with Thumbnails