Đường Xylitol cho con - gọi 0904189797

Người tự kỷ và khả năng đọc suy nghĩ

Sự vô tâm của người tự kỷ để lại hệ quả sâu rộng cho quá trình phát triển cá nhân nhiều hơn những gì các nghiên cứu đã chỉ ra.  Những khó khăn này sẽ còn theo họ đến khi họ trưởng thành, sau đây là một số ví dụ:


i. Thiếu nhạy cảm đối với những cảm xúc của người khác
Federick, là một cậu bé 12 tuổi mắc chứng bệnh tự kỷ. Bố mẹ cậu rất lo lắng không biết làm thế nào để cậu có thể hòa nhập với các bạn khác khi vào trường cấp hai. Họ thật sự kinh ngạc khi biết ngay trong tuần học đầu tiên, con trai họ đã lại gần giáo viên chủ nhiệm trong giờ tập trung cả trường và nhận xét sao thầy có nhiều mụn thế.


ii.  Không biết cân nhắc xem người ta đã biết những gì rồi
Jeffrey, một thanh niên tự kỉ chức năng cao, nắm giữ một trọng trách trong một công ty máy tính, lại không thể hiểu rằng những gì anh ta đã trải nghiệm có thể người khác chưa biết.  Anh ta không thể hiểu được rằng trải nghiệm của mình khác của người khác, nên anh ấy cứ nhắc đến các sự việc đó mà không cho người khác thông tin về bối cảnh xảy ra, để đồng nghiệp và bạn bè anh ấy có thể hiểu được ngữ cảnh của nó khi tranh luận với anh ấy.


iii. Thiếu khả năng thương thuyết với bạn thông qua việc đọc và phản hồi ý định của bạn
Samantha, một bé gái 10 tuổi bị chứng bệnh tự kỷ, đang học tại một trường thường, đã được cha mẹ chỉ bảo rất cẩn thận cách giới thiệu tên tuổi và địa chỉ của mình. Tin rằng đó là tất cả những gì mình cần để kết bạn, cô bé tiến đến nhóm bạn, trịnh trọng đọc tên và địa chỉ của mình, sau đó đánh bạn đứng gần nhất vì mãi không thấy ai nói lời mời cô bé nhập hội.


iv. Thiếu khả năng nhận ra mức độ quan tâm của đối phương
Robert, một cậu bé 12 tuổi, đang học tại một trường thường, luôn khiến bạn bè và thầy cô phát bực vì những màn độc thoại tẻ nhạt về dung tích xy lanh của xe Renault, cấu trúc của cầu Severn, và chứng bạch tạng. Cậu có thể nói tràng giang về các chủ đề mà cậu yêu thích mà không hề để ý đến người khác có quan tâm những điều mình nói hay không


v.  Thiếu khả năng luận ra chủ ý của người nói
Trong giờ học mỹ thuật, David, 14 tuổi bị chứng bệnh tự kỷ, được thầy yêu cầu "sơn em bé ở gần con".  Cậu làm đúng như lời của thầy, khiến bạn học rất bực.


Leo, một chàng trai trẻ làm việc trong văn phòng, cũng gặp rất nhiều khó khăn vì anh ta toàn hiểu lời nói theo từng câu từng chữ.  Giả dụ có ai khiêu khích nói rằng "Cậu làm lại đi....!" thì cậu sẽ lọc cọc đi làm đúng như vậy, ngược hẳn ý của người nói.


vi.  Thiếu khả năng dự đoán người khác có thể nghĩ gì về một hành động
Joseph, khi còn ở độ tuổi teen, thường thết đãi người lạ bằng việc kể những chuyện rất cá nhân về mình, không nhận ra rằng nói chuyện với người khác về các chức năng cơ thể của một người, hoặc những tình cảm riêng tư trong cuộc sống gia đình là không phù hợp. Cậu cũng thường tự nhiên cởi quần cởi áo chỗ đông người khi trời nóng, mà không hề biêt ngượng.


Mặc dù khi lớn lên, nhiều khó khăn cũng đã được cải thiện, cậu lại gặp rất nhiều khó khăn khác khi bắt đầu làm việc tại một công ty máy tính. Cậu không hề để tâm đến không gian riêng của mỗi người, thậm chí thường lởn vởn gần bàn làm việc của nhân viên nữ, hoặc dựa người vào họ khi đi thang máy hay xếp hàng. Sau một vài tuần, cậu bị sa thải vì tội quấy rối tình dục.


vii. Thiếu khả năng nhìn ra những nhầm lẫn
Michale, một thanh niên tự kỷ, vừa bị sa thải sau khi có xích mích với nhân viên giữ hành lí. Anh ta không hề cảm thấy hối hận sau khi đã dùng ô để đánh cô này “vì cô ta đã đưa nhầm vé cho tôi”. Vốn là người quen tỉ mỉ chi tiết, anh ta không thể hiểu được và thông cảm cho những nhầm lẫn của người khác. Mãi anh ta vẫn không thể hiểu được tại sao anh ta lại bị đuổi vì anh ta tin rằng đáng lí ra người bị đuổi việc phải là cô nhân viên giữ hành lí.


viii.  Không biết lừa phỉnh người khác cũng như không có ý niệm gì về lừa phỉnh
John, 25 tuổi bị chứng bệnh tự kỷ, làm trong một cửa hàng nữ trang. Vì anh ta nổi tiếng là người trung thực, nên được giao giữ chìa khóa két. Tuy nhiên, vì không có ý niệm gì về dối trá, anh đã bị một người bảo vệ ca đêm lợi dụng. Khi được yêu cầu đưa chìa khóa, John liền đưa ngay và khi tên bảo vệ tẩu tán cùng với những thứ trong két, John bị buộc tội tòng phạm. Mặc dù cuối cùng người ta bỏ cái án cho John khi hiểu ra vấn đề nhưng John không còn được tin dùng vào những vị trí cần lòng tin như vậy nữa.


ix.  Thiếu khả năng hiểu nguyên do ẩn sau hành động của người khác
David, 20 tuổi bị chứng bệnh tự kỷ, có trí thông minh bình thường, khả năng giao tiếp xã hội rất tệ, nhưng vẫn được tuyển dụng do có chú giới thiệu. Biết những hạn chế của David, người chú này chủ động xin cho David làm việc ở một vị trí không cần phải tiếp xúc nhiều người. Thay vì cảm ơn người chú tốt bụng, David lại rất giận dữ vì nghĩ rằng chú mình không muốn cho mình được làm ở vị trí quản lí công ty. Anh ta bỏ việc chỉ mấy ngày sau đó, và vô cùng tức giận người đã rất cố gắng giúp đỡ anh ta.


x.  Thiếu khả năng hiểu “những luật bất thành văn” hoặc quy ước ngầm
Jan, 25 tuổi, đã dành hàng tháng tham gia các lớp học huấn luyện kỹ năng xã hội và các kĩ năng khác để cải thiện kỹ năng đối thoại và xã hội khác. Anh ta gặp khó khăn trong việc phản hồi nhận xét tức thì, và nhóm trưởng đã phải nỗ lực hết mình để giúp anh phát triển những mẹo giao tiếp: tìm chủ để các bên cùng quan tâm, hoặc cảm thán vẻ bề ngoài của người khác.  Sau buổi đầu tiên học nhảy, Jan thực sự rất tự hào vì đã bắt chuyện được với một cô gái suốt cả buổi tối.  Thế cậu đã nói gì với cô ấy? Tớ nói rằng cô ấy rất đẹp và tớ rất thích bộ váy màu đỏ cô ấy đang mặc vì nó cùng tông với màu lợi của cô ấy.


Ví dụ về những tai nạn trong việc đọc hiểu tâm ý của người khác đã nêu trên có thể dẫn đến không biết bao vấn đề, nhưng cũng đủ để ta thấy người tự kỷ thường không hiểu hành động và lời nói của người khác.  Những khó khăn này có thể khiến họ bị xã hội từ chối, cô lập, hiểu lầm, và thậm chí lợi dụng.

Người bình thường và khả năng đọc hiểu suy nghĩ - Theory of Mind


Dịch từ cuốn Teaching children with Autism to mind-read 
  
“Thuyết tâm ý” được định nghĩa như là khả năng suy đoán trạng thái tâm lí tình cảm của người khác (suy nghĩ, niềm tin, mong muốn và dự định của họ, v.v…), và khả năng sử dụng thông tin này để lý giải những điều họ nói, hành vi ứng xử của họ, và dự đoán được những điều họ sẽ làm tiếp theo. Khi trẻ bắt đầu nói, thường là chúng sẽ nói về những hành động chỉ trạng thái tinh thần. Từ khoảng 18 đến 30 tháng tuổi, những đứa trẻ phát triển bình thường đã nhắc đến các trạng thái tinh thần: cảm xúc, nguyện vọng, niềm tin, suy nghĩ, ước mơ, năng lực. Đến khoảng 3 – 4 tuổi, như một số nghiên cứu thí nghiệm đã chỉ ra, khả năng suy đoán tâm ý người khác của trẻ đã rất phát triển rồi.  Xuất hiện một số nghiên cứu tranh cãi rằng khả năng suy đoán này gọi là “thuyết” thì có phù hợp không. Chúng tôi không bàn luận đến vấn đề này, mà sẽ dùng từ trung tính hơn là khả năng đọc tâm ý của đối phương.
 
Dennett đề xuất cách trắc nghiệm khả năng đọc tâm ý đối phương bằng cách đưa ra các tình huống tồn tại những “niềm tin không trùng với thực tế”. Trắc nghiệm:

Sally có một chiếc giỏ
Anne có một chiếc hộp
Sally có một hòn bi và bỏ hòn bi vào trong chiếc giỏ
Sally ra ngoài đi dạo 
Anna lấy hòn bi ra khỏi chiếc giỏ và bỏ vào trong chiếc hộp
Bây giờ Sally quay lại. Cô bé muốn chơi với hòn bi của mình.
Cô bé sẽ tìm hòn bi của mình ở đâu?


Như các bạn thấy, trắc nghiệm này đòi hỏi bạn phải nhận định được là vì khi hòn bi bị cất đi chỗ khác, Sally không có ở đó, Sally không nhìn thấy điều đó và vì thế Sally sẽ không biết nó đã bị đổi chỗ, và vì thế hẳn là cô bé vẫn đinh ninh là nó vẫn ở chỗ cũ. Và khi ta hỏi: “Sally sẽ tìm hòn bi của mình ở đâu?” (thực tế là câu hỏi về suy nghĩ của Sally) thì đa số trẻ tầm 4 tuổi sẽ trả lời đúng.

Khả năng hiểu về "niềm tin không trùng với thực tế" là rất phức tạp, bởi vì một đứa trẻ sẽ phải hiểu Sally đinh ninh điều gì để dự đoán những hành động tiếp theo của Sally. Tuy nhiên, từ độ tuổi rất nhỏ, trẻ thường đã ý thức được là mọi người đều nắm giữ những thông tin nhất định trong đầu, nghĩa là họ nằm giữ thông tin ở các mức khác nhau. Một cách trắc nghiệm khả năng này ở trẻ nhỏ là bài kiểm tra khả năng đặt mình vào góc nhìn trực quan của người khác. Có hai mức độ: Mức độ 1 là khả năng suy luận đối phương có thể nhìn thấy những gì, thường xuất hiện ở trẻ tầm hai tuổi. Nghĩa là trẻ hai tuổi đã có thể bầy một vật cho người khác xem hoặc cất đi không cho xem nữa, khi ta yêu cầu. Mức độ 2 là biết suy luận vật đó sẽ trông như thế nào từ góc nhìn của đối phương. Khả năng này cần nhiều thời gian để trau dồi phát triển hơn. Thực tế là phải đến độ 3 - 4 tuổi, trẻ thường mới có thể làm được bài kiểm tra này. Ví dụ, nếu người kiểm tra và trẻ ngồi ở hai góc nhìn khác nhau, trẻ 3 tuổi sẽ không thể chỉ ra đúng người kia sẽ nhìn thấy con rùa trông như thể nào: cạnh phải lộn lên trên hay hình sẽ lộn ngược hẳn chiều so với trẻ.


Một hệ quả từ quá trình trau dồi khả năng đọc suy nghĩ của người khác là trẻ có thể hiểu nguyên lý “nhận biết xuất phát từ những gì nhìn thấy”. Ví dụ, trẻ 3 tuổi có thể dễ dàng chỉ ra ai trong số hai người: một đã nhìn vào hộp đựng đồ, còn một chỉ sờ vào hộp, là người biết trong hộp có gì. Khả năng này chứng tỏ rằng, từ khi còn rất nhỏ, trẻ đã nhận thức được về tầm quan trọng của việc tiếp cận thông tin để thu nạp kiến thức.


Có quá nhiều điều có thể nói về cách trắc nghiệm khả năng trẻ hiểu mỗi người nắm bắt thông tin ở mức độ khác nhau. Còn ước muốn và cảm xúc thì sao? Ước muốn thường được coi là một yếu tố nữa của trạng thái tinh thần bên cạnh niềm tin, giúp ta hiểu được hành vi của người khác. Hiểu được ước muốn và niềm tin, người ta có thể lý giải được tất cả các hành vi ứng xử của người đó. Ví dụ, khi xem một bộ phim, để lý giải tại sao diễn viên chính lại đi nhón chân vào căn hộ trống không của mình, chúng ta có thể lý giải nhân vật đó tin rằng có ai đó ở trong căn hộ và anh ta muốn đột nhập vào căn hộ mà không bị ai phát hiện. Có một số nghiên cứu nói rằng, trẻ thường nhận biết về ước muốn trước rồi mới đến niềm tin – thực tế, trẻ hai tuổi là đã nhận thức rõ ràng về ước muốn rồi.  Ta có thể lý giải khủng hoảng tuổi lên 2 là do trẻ dần dà nhận thức ra sự khác biệt giữa ước muốn của mình và của bố mẹ.  


Về khả năng hiểu các trạng thái cảm xúc, ngay cả trẻ nhỏ cũng có thể phân biệt được nét mặt thể hiện vui, buồn, giận giữ, lo sợ. Đến khoảng 3 tuổi, trẻ em có thể dự đoán được tình huống nào sẽ dẫn đến cảm xúc gì, và khoảng 4 tuổi, chúng có thể suy đoán cảm xúc của mọi người từ ước muốn và niềm tin của họ. Ví dụ, nếu John đang mong một quyển sách mới, nhưng anh ta cho rằng trong hòm đồ không có quyển sách mới thì anh ta sẽ cảm thấy buồn.


Một trạng thái tinh thần quan trọng nữa đã và đang được nghiên cứu sâu đó là khả năng giả vờ. Đứa trẻ bắt đầu chơi các trò chơi giả vờ từ 10 – 18 tháng tuổi. Những thử nghiệm đối với trẻ thường đã biết nói cho thấy một khi chúng biết trả lời các câu hỏi, là chúng đã biết phân biệt giả vờ khác với thực tế. Chúng có thể lấy quả chuối để giả vờ chơi trò gọi điện thoại, mà không hề lẫn lộn chức năng sử dụng của hai vật này. Rõ ràng đây là một thành tựu không đơn giản.

LinkWithin

Related Posts with Thumbnails